Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.



 
Trang ChínhTìm kiếmLatest imagesĐăng kýĐăng Nhập
Chào mừng các bạn đến với diễn đàn*** https://dlthanh.forumvi.com *** Hy vọng rằng diễn đàn sẽ mang lại những giây phút vui vẻ và bổ ích cho các bạn ***Regards***
Hi 5 . . .

Share|
[ Tiêu đề ]

Tấn Thảm Kịch Của Tàu korosko

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down
Tác giảThông điệp

donka
donka

//dondonitt

Tổng số bài gửi : 143
Points : 425
Reputation : 25
Join date : 06/06/2011

Bài gửiTiêu đề: Tấn Thảm Kịch Của Tàu korosko Tấn Thảm Kịch Của Tàu korosko Icon_minitimeThu Jun 09, 2011 10:55 am



Tấn Thảm Kịch Của Tàu korosko - Arthur Conan DoyleChương 1:


Có lẽ công chúng sẽ tự hỏi tại sao các báo chí không bao giờ kể
lại câu chuyện những hành khách trên tàu Korosko. Ở vào một thời
đại như thời đại của chúng ta, khi mà các hãng thông tin, báo
chí nhìn soi mói vào khắp vũ trụ để tìm tòi những chuyện giật
gân, thật không thể tin được là sự bí ẩn đã che đậy được lâu như
vậy một sự cố quốc tế có tầm quan trọng như thế. Ta đành phải
nói rằng sự kín tiếng này đã có cơ sở trên những lý do hết sức
giá trị, cả về mặt chính trị lẫn về mặt riêng tư. Tuy nhiên, một
số người nào đó đã biết rõ các sự việc, một lập luận của những
người này đã xuất hiện ngay cả trong một nhật báo tỉnh lẻ và nó
đã lôi theo ngay tức thì một bài cải chính. Bây giờ đây là những
sự việc được ghi chép dưới dạng một bài thuật sự. Sự chính xác
của chúng được bảo đảm bởi những lời khai báo được đưa ra qua sự
tuyên thệ của đại tá Cochrane Cochrane, thuộc câu lạc bộ Lục
quân và Hải quân, bởi các lá thư của cô Adams, ở Boston, Mass,
cũng như bởi lời khai chúng thu lượm được trong quá trình điều
tra mật của chính phủ được thực hiện ở Le Caire với đại úy
Archer, và những lính cưỡi lạc đà người Ai Cập. Ông James
Stephens đã khước từ việc thông báo cho chúng tôi lập luận về sự
vụ của ông ấy trên giấy trắng mực đen; nhưng vì các bản in thử
của tập sách này đã được gửi cho ông ấy xem, vì ông ấy đã không
đưa ra một sự đính chính hay xóa bỏ nào, chúng tôi có quyền giả
thiết là ông ấy đã không nêu ra được một sự sai trái cụ thể nào,
và những sự phản kháng của ông ấy đối với sự công bố của chúng
tôi đã xuất phát phần lớn từ những sự thận trọng, áy náy riêng
tư.

Tàu Korosko có một cái bụng chìm dưới nước hình mai rùa, mũi tàu
phình ra, phần lái tàu tròn, tầm nước là tám mươi cen-ti-mét và
trắc diện bằng một cái bàn là (bàn ủi). Ngày 13 tháng 2 năm
l895, nó nhổ neo từ Shellal, ở gần thác nước thứ nhất, để đi tới
Quadi-Halfa. Tôi có được bản danh sách những hành khách của
chiếc tàu tuần dương này; đây là bản danh sách đó:

Ðại tá Cochrane Cochrane _ Luân đôn

Ông Cecil Brown __________ Luân đôn

John H Headingly _________ Boston, Hoa kỳ

Cô Adams _________________ Boston, Hoa kỳ

Cô S. Adams ______________ Worcester, Mass, Hoa kỳ

Ông Fardet _______________ Paris

Ông và Bà Belmont ________ Dublin

James Stephens ___________ Manchester

Giáo sĩ John Stuart ______ Birmingham

Bà Shlesinger,cô vú em và 1 đứa nhỏ __ Florence

Ðó là những du khách khởi hành từ Shellal, với ý

định là đi ba trăm ba mươi cây số ngược dòng sông Nil của nước
Nubie, quãng sông ngăn cách thác nước thứ nhất và thác nước thứ
hai.

Nước Nubie này, một xứ sở kỳ lạ! Chiều ngang của nó thay đổi
trong khoảng vài cây số và vài mét, vì cái tên của nó chỉ được
dùng cho một dải đất hẹp cầy cấy được. Với một màu xanh lục,
không có bề dày và với những cây cọ mọc bao quanh, nó chạy dài ở
mỗi bên của con sông rộng màu cà phê. Ở tít xa kia, trên bờ
thuộc nước Libye, là chỗ khởi đầu của sa mạc hoang dã chạy dài
trên suốt bề ngang của Châu Phi. Trên bờ bên kia, một phong cảnh
cũng hoang vu như vậy tỏa rộng ra tới mãi Hồng Hải xa xôi. Nằm
vào giữa hai miền mênh mông cằn cỗi này, nước Nubie trải dài ra
dọc theo con sông như một con giun đất xanh rì. Ở nhiều chỗ nó
bị đứt đoạn: tại đó sông Nil chảy vào giữa, những hòn núi đen xì
và rạn nứt vì trời nắng; những đụn cát di động màu cam là vật để
trang trí cho các thung lũng. Ở khắp nơi người ta phát hiện ra
các dấu vết của những giống người đã mất tích và những nền văn
minh đã bị chìm ngập. Những ngôi mộ kỳ dị in dấu trên các sườn
đồi hoặc nổi bật lên trước chân trời; các Kim Tự Tháp, những mộ
xây bằng đá, những khối đá dùng làm mộ chí, nhưng ở khắp mọi
nơi, toàn là mồ mả. Nơi này, nơi nọ, khi con tàu đi vòng quanh
một mũi đất có nhiều núi, người ta nhìn thấy ở trên đỉnh cao một
thành phố bỏ hoang, những cái nhà, những bức tường thành, những
bờ lũy; ánh nắng xuyên qua các cửa sổ hoặc các lỗ hổng vuông.
Người ta biết rằng thành phố đã được xây dựng bởi người La-mã,
hoặc bởi người Ai Cập; có điều là tên nó và nguồn gốc của nó đã
bị mất đi không còn cứu vãn được. Người ta thấy sửng sốt; người
ta tự hỏi tại sao một giống người, dù họ là giống người nào đi
nữa, lại đi xây dựng trong một cảnh hoang vắng thô lỗ như thế
này. Người ta phải chấp nhận một cách khó khăn, cái thuyết theo
đó thì các kiến trúc này không có mục đích nào khác hơn là bảo
vệ lối vào vùng đồng bằng phì nhiêu chống lại bọn đạo tặc và bọn
man rợ ở miền Nam. Nhưng dù sao thì chúng vẫn còn đứng nguyên,
những thành thị im lìm và dữ tợn này; và ở đỉnh các ngọn núi, ta
có thể nhìn thấy những nấm mộ ở đó các cư dân của chúng đã được
chôn cất, nhìn từ xa chúng giống như những cửa sổ nhỏ của một
chiếc thiết giáp hạm. Ðó là miền bí ẩn, không sinh khí mà những
du khách đi ngược dòng sông tới biên giới Ai Cập đã đi qua trong
lúc vừa hút thuốc, vừa nói chuyện dông dài, vừa tán tỉnh nhau.


Những hành khách trên tàu Korosko đã rất ăn ý với nhau. Họ đã
tất cả cùng nhau đi gần hết đoạn đường từ Le Caire tới Assouan;
sông Nil có khả năng làm xúc động được tất cả mọi thứ lãnh đạm
kể cả thứ bền bỉ nhất: sự lãnh đạm của dân Anh. Họ đã có một dịp
may bất ngờ: nhóm họ đã không có một kẻ tính nết khó chịu, một
kẻ mà ở trên một con tàu nhỏ cũng đủ làm hỏng sự vui thích của
mọi người. Trên một chiếc tàu chỉ quan trọng hơn chiếc tàu phụ
lớn đôi chút thì một kẻ quấy rầy, một kẻ trơ tráo, một kẻ càu
nhàu làm mưa làm gió với tất cả hành khách. May mắn thay chiếc
Korosko đã không chở trên tàu một người nào giống như một kẻ
quấy rầy cả. Ðại tá Cochrane Cochrane, một trong các sĩ quan mà
chính phủ Anh, đúng như qui luật, đã tuyên bố là không có khả
năng trong ngành hiện dịch ở một độ tuổi nào đó, và đã chứng tỏ
giá trị của qui luật bằng cách cống hiến phần còn lại của đời họ
để đi thám hiểm nước Maroc hay đi săn bắn sư tử ở Somalie. Nước
da nâu, đứng rất ngay ngắn, ông đại tá đã tự ý biểu hiện lối xã
giao lễ độ, nhưng cái nhìn của ông có vẻ lạnh lùng của một nhiệm
vụ điều tra; rất kỹ càng trong lối ăn mặc, chính xác trong các
thói quen, ông là một người quí phái tới tận đầu móng tay. Thực
hành sự chán ghét của người Anh đối với việc thổ lộ tâm tình,
ông đã tự giới hạn mình trong một sự thận trọng mà thoạt nhìn có
vẻ như sự lãnh đạm thờ ơ, nhưng đôi khi ông thấy khó chịu phải
che dấu lòng tốt và những tình cảm của con người là những thứ có
ảnh hưởng tới các hành động của ông. Ðối với những bạn đồng hành
của ông, ông đã gợi lên nhiều sự tôn kính hơn là lòng cảm mến;
thật sự tất cả mọi người đều có cảm tưởng rằng ông không phải là
người để cho sự liên hệ trong một chuyến tàu nảy sinh ra thành
tình bạn. Tuy nhiên, một khi đã được đồng ý thì tình bạn này sẽ
trở thành một bộ phận của bản thân ông. Râu mép ông đã lốm đốm
bạc, trông rất ra vẻ nhà binh, nhưng ông giữ được mái tóc đen
một cách khác thường ở vào tuổi ông. Trong khi trò chuyện không
bao giờ ông nhắc tới rất nhiều chiến dịch trong đó ông đã tỏ ra
xuất sắc; ông giải thích sự kín đáo này bằng cách nói rằng chúng
đã diễn ra từ hồi khởi đầu kỷ nguyên của Nữ hoàng Victoria, và
ông đã hiến tế sự vinh quang về binh nghiệp của ông lên bàn thờ
của thời thanh xuân bất diệt của ông.

Ông Cecil Brown (tôi lấy các danh tính theo thứ tự của bản danh
sách) là một nhà ngoại giao trẻ tuổi thuộc về một tòa đại sứ ở
trên lục địa; chưa hoàn toàn đoạn tuyệt hẳn với phong thái ở
Oxford, ông đã phạm phải chút ít lỗi lầm vì sự tỉ mỉ thái quá,
nhưng sự nói chuyện của ông thì rất thú vị và chứng tỏ một trình
độ văn hóa vững chắc. Ông có một bộ mặt xinh đẹp, buồn bã, một
bộ ria mép nhỏ mà ông bôi sáp một cách kỹ càng ở các đầu chót,
một giọng nói trầm trầm, và một sự lơi là về tâm tính mà một lối
mỉm cười duyên dáng đủ đền bù lại mỗi khi ông đi quá trớn trong
tính tình kỳ lạ của ông. Ông đã cố gắng kiềm chế những nhiệt
tình ấu trĩ rất tự nhiên của ông bằng một sự hoài nghi có tính
cách đùa cợt; trong trạng huống này ông bất chấp sự thật hiển
nhiên để nói ra những ý nghĩ làm phật lòng người vừa mới gặp.
Trong chuyến du hành, ông đã mang theo những sách của Walter
Pater, và suốt cả ngày ông ngồi lại trong căn lều vải với một
cuốn tiểu thuyết và một cuốn tập vẽ để bên mình, trên một cái
ghế đẩu. Tư cách riêng của ông đã không cho phép ông tán tỉnh
làm quen với những người khác, nhưng nếu các bạn đường của ông
muốn tới nói chuyện với ông, thì ông tỏ ra vừa lịch sự, vừa khả
ái.

Những người Mỹ đã lập thành một nhóm riêng biệt. Vốn quê quán ở
Nowvelle-angletrre và tốt nghiệp tại Harvard (một đại học danh
tiếng ở Mỹ), John H Headingly bổ sung sự học vấn của mình bằng
cuộc du lịch thế giới. Ông đã tượng trưng một cách toàn hảo cho
người thanh niên Mỹ, sinh động, có đầu óc quan sát, nghiêm túc,
thèm khát sự hiểu biết, và gần như không bị các thành kiến trói
buộc, sôi động với một tình cảm đẹp đẽ về tôn giáo, không một
chút đầu óc bè phái hẹp hòi, ông giữ đầu óc lạnh lùng ở giữa
những cơn giông tố thình lình của tuổi thanh xuân. Ông có vẻ kém
trí thức hơn nhà ngoại giao của Oxford, nhưng thật sự ra ông còn
trí thức hơn nữa, vì những cảm xúc sâu sắc hơn của ông đã bù lại
cho những kiến thức ít phần chính xác. Cô Adams là cô của cô
Sadie Adams : một người con gái già ở Boston, nhỏ bé, đầy nghị
lực, với bộ mặt khó thương, cô đã đè nén một cách khó khăn sự
trìu mến lớn lao chưa bao giờ được dùng tới; đây là lần đầu tiên
cô rời khỏi nước Mỹ, và trong tất cả các nhiệm vụ có một nhiệm
vụ làm cô say mê, kéo Ðông - Phương lên ngang hàng với Massa
Chusetts. Vừa mới đặt chân lên đất Ai Cập, cô đã thấy rằng nước
này cần được khai hóa; cô lo lắng về chuyện này một cách nóng
nảy. Những con lừa lưng bị tróc da, những con chó đói, những con
ruồi bám quanh mắt lũ trẻ nhỏ, những đứa bé trần truồng, những
kẻ hành khất quấy rầy, những người đàn bà quần áo tả tơi, tất cả
đều như thách thức lương tâm cô; do đó cô đã dũng cảm lao mình
vào một công cuộc cải cách. Tuy nhiên vì cô không nói được một
chữ của ngôn ngữ bản xứ. và vì cô không thể làm cho người ta
hiểu được cô, nên chuyến đi ngược dòng sông Nil của cô đã để
Ðông - Phương ở lại gần như trong tình trạng mà cô đã phát hiện
ra nó, nhưng ngược lại đã cung cấp cho các bạn đồng hành của cô
nhiều đề tài để vui đùa. Cháu gái Sadie của cô, người đã cùng
chia sẻ với bà Belmont danh dự là nữ hành khách được ưa chuộng
nhất trên tàu Korosko, không phải là người cuối cùng thích bông
đùa giải khuây về chuyện này. Rất trẻ, vừa mới rời khỏi trường
Smith College, cô còn giữ được phần lớn những tính tốt và tính
xấu của tuổi ấu thơ, cô có một sự thành thật và một niềm tin hơi
ngây thơ, sự ngay thẳng ngây thơ, sự dũng cảm, và cả tính nói
nhiều và sự bất kính của lứa tuổi cô, nhưng ngay các tính xấu
này cũng làm người ta vui thích, càng vui thích hơn khi mà cô
con gái cao lớn và xinh đẹp này có vẻ già hơn là tuổi tác thật
sự của cô, vì những lon tóc thấp viền quanh tai cô và những
đường nét no đầy của thân mình cô. Tiếng xột xoạt của váy cô,
giọng nói cương quyết và thành thật, tiếng cười vui tai của cô
bao giờ cũng được hoan nghênh trên tàu Korosko. Ông đại tá biểu
lộ tính lịch sự hào hiệp với cô, và nhà ngoại giao của Oxford
thôi không còn hoa mĩ lòe loẹt khi cô Sadie Adams ngồi bên cạnh
ông.

Chúng tôi sẽ nói ngắn gọn hơn về những hành khách khác. Có vài
người tỏ ta đặc sắc hơn những người khác, nhưng tất cả bọn họ
đều đứng đắn và có tư cách đàng hoàng. Ông Fardet, một người
Pháp hiền hòa mặc dầu có tính hay tranh luận, chủ trì những định
kiến liên quan tới các mưu đồ chính trị của nước Anh, và sự bất
hợp pháp của vị thế của nước này tại Ai Cập. Ông Belmont, một
người Ái-nhĩ-lan khỏe mạnh với mái tóc hoa râm, là người đã
thắng hầu hết các cuộc thi bắn súng ở Wimbledon và Bisky; ông
mang theo bà vợ, một người đầy sức quyến rũ và đài các, rất tao
nhã, và vui vẻ một cách tế nhị như tính tình mọi người dân ở Ái
Nhĩ Lan. Bà Shlesinger, một goá phụ ở độ tuổi trung bình, hiền
hòa và nhu mì, người chỉ chăm chú vào đứa con sáu tuổi của mình.
Giáo sĩ John Stuart là một vị mục sư phi quốc giáo ở Birmingham,
thuộc trưởng lão giáo phái hay tự trị giáo đoàn. Ông được tạo
hóa phú cho một sự phì nộn đáng nể kèm theo một sự chậm chạp lề
mề; ông cũng có một cái vốn hài hước giản dị, mà theo những tin
tức tôi được biết, đã làm cho ông trở thành một nhà truyền giáo
thành công và một diễn giả hữu hiệu khi ông nói trên các diễn
đài cực cấp tiến, mặc dù ông bị bệnh suyễn.

Sau hết là ông James Stephens một luật sư ở Manchester (một
người trong số các cộng sự viên của hãng Hickson, Ward và
Stephens), người đi du lịch để làm tiêu tan hết các hậu quả của
một bệnh cúm tệ hại. Stephens là người tự thân lập thân, ông đã
bắt đầu từ việc lau rửa những hòn gạch vuông của công ty trước
khi điều khiển công việc, trong ba mươi năm trời, ông đã tận tụy
với một công việc khô khan, chuyên môn, và ông chỉ sống để làm
vừa lòng những thân chủ cũ và lôì kéo những thân chủ mới. Tinh
thần và linh hồn ông đều thấm nhuần chủ nghĩa hình thức và sự
nghiêm ngặt của luật pháp mà ông có nhiệm vụ phải giải thích.
Tuy vậy tính tình của ông cũng không thiếu sự cao cả và lòng
trắc ẩn; nhưng các đức tính này đã bắt đầu tàn úa, cũng như tất
cả các tính tốt của con người đã tàn úa ở chốn thị thành. Ông
làm việc theo thói quen, và sống độc thân, ông không quan tâm
tới một điều gì khác; tâm hồn ông đã chai lì, giống như thân
mình một vị nữ tu thời Trung Cổ đôi khi ngẫu nhiên ông bị đau
ốm, tạo hóa đã xô đẩy, tống xuất ông ra khỏi nơi ẩn náu của ông,
và ném ông vào thế giới bao la, xa cách Manchester và cái thư
viện đầy những chứng điển, tiền lệ được đóng bằng da bê. Lúc đầu
ông rất nhớ tiếc cái thư viện đó. Rồi dần dà mắt ông được mở
rộng, và ông cảm thấy một cách mơ hồ rằng công việc của ông quá
tầm thường bên cạnh cái vũ trụ kỳ diệu, đa dạng, không thể giải
thích được này, mà ông đã không biết gì tới. Ngay cả có lúc ông
đã tự hỏi liệu cái lúc ngưng nghỉ này trong nghề nghiệp của ông
có thể tỏ ra quan trọng hơn chính bản thân nghề nghiệp của ông
không. Những lợi ích mới tràn ngập lòng ông, và vị luật gia gần
năm mươi tuổi này cảm thấy trong ông bùng lên những ngọn lửa
cuối cùng của một thủơ thanh xuân mà việc đọc quá nhiều sách vở
đã làm tắc nghẹt. Ông rất ương bướng không chịu nhìn nhận rằng
các phong cách của ông lúc nào cũng khô khan, khúc chiết và ông
đã dùng một ngôn ngữ hơi mô phạm. Tuy nhiên ông đẵ đọc, đã suy
ngẫm và nhận xét; ông gạch ngang dưới hàng chữ và ghi chú sách
của Bredeker, cũng như thời trước ông đã gạch ngang dưới hàng và
ghi chú các sách về luật của ông. Ông đã lên tàu ở Le Caire, và
ông đã kết thân với cô Adams và cháu gái cô ấy. Lối nói năng
thành thật và sự mạnh dạn của cô thiếu nữ Mỹ làm ông thích thú;
để đáp lại, Sadie đã dành cho ông sự kết hợp của lòng tôn trọng
và lòng thương do các kiến thức và các sự giới hạn của ông. Thế
là họ trở thành những người bạn thân, và người ta mỉm cười khi
nhìn thấy bộ mặt u ám của vị luật sư và khuôn mặt rạng rỡ của cô
thiếu nữ cúi xuống trên cùng một quyển sách chỉ nam.

Con tàu Korosko nhỏ bé chạy ngược dòng sông Nil trong khi tung
lên những luồng khói và bọt nước. Với năm hải lý một giờ, nó đã
gây ra nhiều tiếng ồn và nhiều trắc trở hơn là một con tàu xuyên
Ðại Tây Dương lúc ganh đua giành kỷ lục. Trên boong tàu, dưới
tấm lều vải dày, cái tiểu gia đình của các hành khách ngồi ở đó,
thường thường là sau vài giờ đồng hồ, con tàu tấp vào bờ để cho
hành khách thăm viếng một loạt các đền đài mới thấy. Nhưng các
cảnh hoang tàn đã trở nên mỗi lúc mỗi kém cổ kính đi, những du
khách là những người đã được thỏa mãn ở Gizeh và Sakara khi ngắm
nghía những đền đài cổ xưa nhất được con người xây dựng lên, đã
bắt đầu chán nản với những ngôi đền mới có nhiều lắm là vào lúc
khởi đầu kỷ nguyên cơ đốc giáo. Ở Ai Cập, người ta khó tìm ra
những cảnh hoang tàn mà ở bất cứ nước nào khác đã là một nơi
được sự sùng bái lạ thường. Do đó các du khách chỉ có những cái
nhìn uể oải dành cho nghệ thuật nửa phần Hy Lạp của những hình
chạm nổi ở Nubie; họ leo lên chóp đỉnh của tàu Korosko để xem
cảnh mặt trời mọc trên sa mạc hoang vu của Ðông Phương; họ đồng
tình cảm phục ngôi đền lớn Abon-Simbel, vì một chủng tộc cổ xưa
đã đào vào một quả núi như đào một cục phô mai vậy. Sau cùng,
buổi chiều của ngày thứ tư trong cuộc du hành, họ tới
Quadi-Halfa, thành phố biên thùy, với vài giờ chậm trễ gây ra
bởi một sự trục trặc nhỏ trong các máy móc. Quadi-Halfa cũng là
một thành phố có quân trú phòng. Sáng hôm sau, họ phải đi du
ngoạn trên núi Abousir lừng danh, ở đó người ta có được một cái
nhìn tuyệt mĩ trên

thác nước thứ hai. Lúc tám giờ rưỡi, khi các hành khách đang
ngồi trên boong sau bữa ăn tối, thì Mansoor, người thông ngôn,
một người Syrie lai ở Copte, đi tới để loan báo, như mỗi buổi
tối, chương trình của ngày hôm sau.

Anh ta nói :

- Thưa các quí bà và các quí ông, ngày mai xin quí vị chớ quên
thức dậy vào tiếng kẻng đầu tiên để cho cuộc du ngoạn được kết
thúc vào buổi trưa. Khi chúng ta tới chỗ những con lừa đang chờ
đợi chúng ta thì chúng ta sẽ cưỡi chúng để đi sâu vào sa mạc tám
cây số; chúng ta sẽ đi qua trước một ngôi đền của Ammonra, đã có
từ triều đại thứ mười tám, rồi chúng ta sẽ tới núi Abousir mà sự
lừng danh là độc nhất vô nhị. Khi quí vị tới nơi, quí vị sẽ thấy
rằng quí vị đang ở chỗ ranh giới của nền văn minh, ngoài ra, đi
thêm vài cây số xa hơn nữa, quí vị sẽ thấy mình ở trong xứ sở
của các tu sĩ Hồi giáo; quí vị sẽ rõ điều này khi quí vị lên tới
ngọn núi cao. Từ trên đó, quí vị sẽ thấy rõ thác nước thứ hai
trong một khung cảnh gồm đủ mọi vẻ đẹp hoang dại của thiên
nhiên. Tất cả các danh nhân trên thế giới đều đã khắc tên tuổi
họ trên đá; vậy xin quí vị đừng bỏ qua nghi lễ này...

Mansoor chờ đợi một tiếng cười nhỏ bị kìm hãm lại; anh ta
nghiêng mình khi nghe thấy tiếng cười.

-...Quí vị sẽ trở lại Quadi-Hafta sau đó, ở đó quí vị sẽ trải
qua hai giờ với đàn quân lạc đà; quí vị sẽ dự khán sự trải lông
các con vật, quí vị sẽ đi một vòng ở hiệu tạp phẩm. Tôi kính
chúc quí vị một đêm vui vẻ và tốt đẹp.

Những cái răng trắng ởn của anh ta lóng lánh trước ánh đèn; rồi
cái quần dài sậm màu, cái áo vét ngắn may theo kiểu ăng-lê và
cái khăn bịt đầu đỏ của anh ta nối tiếp nhau mà biến dạng ở chân
cầu thang. Tiếng rì rầm nói chuyện, mà sự xuất hiện của anh ta
đã làm gián đoạn, lại tiếp nối rôm rả hơn.

CÔ Sadie Adams nói:

- Ông Stephens ạ, tôi trông cậy vào ông để biết được mọi thứ ở
Abousir. Tôi rất thích biết rõ vật mà tôi nhìn khi tôi đang nhìn
nó, chớ không phải sáu giờ sau đó trong phòng của tôi trên tàu.
Chẳng hạn, tôi đã không nhớ được bao nhiêu về Abon-simbel và
những bức bích họa, mặc dù hòm qua tôi đã nhìn thấy chúng.

"Tôi thì không bao giờ hy vọng biết được chuyện gì" bà cô của
nàng nói. "Khi tôi trở về bình an vô sự trong Ðại lộ
Commonwealth, và khi không còn anh thông ngôn nào để xô đẩy tôi,
tôi sẽ có nhiều thì giờ để đọc sách, lúc đó tôi có thể say mê và
mong muốn trở lại nơi này. Nhưng ông Stephens ạ, ông thật sự rất
đáng yêu khi đã cố gắng cung cấp các tài liệu cho chúng tôi".


"Tôi nghĩ rằng bà và cô muốn có vài tin tức chính xác vì vậy tôi
đã soạn thảo cho bà và cô một bản tóm tắt nhỏ" Stephens trả lời
và đưa cho Sadie một tờ giấy.

Nàng liếc mắt nhìn vào tờ giấy dưới ánh sáng của ngọn đèn trên
boong tàu và tiếng cười trẻ trung của nàng lan ra thành một
tràng cười lớn.

Nàng đọc.

- Re Abousir! Này ông hiểu từ Re là cái gì hả ông Stephens? Ông
đã viết "Re Ramses II" trên tờ giấy cuối cùng mà ông đã đưa cho
tôi mà!

Stephens nói.

- Cô Sadie ạ, đó là một thói quen mà tôi mắc phải. Một tục lệ
trong nghề nghiệp mà tôi làm khi người ta viết một giác thư.

- Một cái gì hở ông Stephens?

- Một giác thư... Một bị vong lục, nếu cô thích vậy. Chúng tôi
viết Re này hay Re nọ, để chỉ ra vật gì mà chúng tôi nói tới.
"Tôi cũng muốn tin rằng đó là một phương pháp tốt", Sadie nói,
"Nhưng đối với tôi nó có vẻ hơi lạ, khi nó được áp dụng vào các
phong cảnh hay vào các vị hoàng đế Ai Cập Re Cheops... Ông không
thấy như thế là buồn cười à?"

- Không, tôi không thể nói là tôi thấy nó buồn cười.

Cô thiếu nữ nói lẩm bẩm:

- Tôi tự hỏi có phải người Anh có ít tinh thần hài hước hơn
người Mỹ không, hoặc có phải đó là một dạng hài hước khác chăng?


Nàng có một lối phát biểu ý kiến trầm tĩnh, trừu tượng, nàng cho
người ta một cảm tưởng là nàng suy tưởng rất cao xa.

-...Tôi tin rằng họ có ít tính hài hước hơn, nhưng khi người ta
suy nghĩ kỹ thì Dickens, Thackeray, Barrie và một số các nhà văn
hài hước khác mà chúng ta cảm phục đều là người Anh. Hơn nữa, ở
rạp hát, tôi chưa từng bao giờ nghe một công chúng cười lớn hơn
là công chúng ở Luân Ðôn. Nghe đây: chúng tôi có ở đằng sau
chúng tôi một khán giả mà mỗi lúc ông ta cười đã gây ra một
luồng không khí mạnh đến nỗi cô tôi phải quay lại để nhìn xem có
phải một cái cửa đã bị để ngỏ không. Nhưng ông đã sử dụng một
vài thành ngữ buồn cười đấy, ông Stephens ạ!

- Cô Sadie, cô còn thấy cái gì buồn cười nữa?

- Này nhé, khi ông gởi cho tôi cái vé vào thăm ngôi đền và tấm
thiệp nhỏ ông đã khởi đầu lá thư: "Kèm theo đây, xin vui lòng
tìm ra...". Và ở cuối lá thư, ông đã ghi giữa hai ngoặc đơn "Hai
tấm vé đính liền nhau".

- Thưa cô, đó là những công thức hiện hành trong các việc giao
dịch.

"Trong các việc giao dịch!", Sadie nhắc lại, giả bộ làm ra vẻ
nghiêm trọng.

Một sư yên lặng đột ngột.

"Có một điều mà tôi mong muốn!" cô Adams dõng dạc nói với một
dạng cứng cỏi và lanh lảnh để che dấu trái tim hiền dịu của cô.
"Ðó là việc được gặp Quốc hội của nước này và được trình bày với
họ một số sự việc. Một đạo luật bắt buộc việc sử dụng thuốc đau
mắt nước sẽ là một trong các kiến nghị của tôi. Một kiến nghị
nữa là hủy bỏ những thứ mạng che mặt mày, là thứ đã biến đổi các
phụ nữ thành những kiện bông có dùi lỗ để làm hai mắt"

Sadie nói :

- Tôi không hiểu tại sao họ lại đeo mạng che mặt. Cho tới ngày
mà tôi thấy được một người kéo mạng che mặt của cô ta lên. Lúc
đó thì tôi đã hiểu!

Cô Adams bực bội kêu lên.

- Họ làm tôi mệt mỏi, những người phụ nữ này! Cũng như truyền
giảng về nghĩa vụ, về phép lịch sự và về sự thanh khiết cho một
khúc gỗ vậy! Còn nhớ không, ông Stephens mới hôm qua thôi ở
Abou-simbel, tôi đi qua trước một trong các căn nhà của họ (nếu
ông có thể gọi là căn nhà cái đống bùn đó); tôi thấy hai đứa bé
con trên bậc cửa với một đống ruồi thường lệ chung quanh hai mắt
chúng, và những lỗ thủng lớn trên những cái áo dài nhỏ bé, nghèo
nàn, màu xanh của chúng! Tôi từ trên con lừa tụt xuống; tôi xắn
tay áo lên; tôi lấy khăn mùi xoa lau mặt cho chúng; tôi khâu lại
áo cho chúng. Trong xứ sở này, khi lên khỏi tàu giá để tôi mang
theo một hộp đồ may vá chắc còn tốt hơn là mang theo một cái dù
trắng, ông Stephens ạ! Thế là tôi phấn khởi với công việc và tôi
đi vào trong nhà. Cái nhà mới tệ làm sao! Tôi lùa những người ở
trong đó ra ngoài và tôi dọn dẹp như một cô đầy tớ. Tôi đã không
còn nhìn thấy đền Abou-Simbel như là tôi đã chưa bao giờ rời
khỏi Boston. Ngược lại, tôi đã trông thấy nhiều bụi bặm và cáu
bẩn trong một căn nhà lớn như một cái buồng tắm ở New York, hơn
là trong bất kỳ một căn hộ nào ở Mỹ. Giữa cái khoảnh khắc mà tôi
xắn tay áo lên với cái khoảnh khắc mà tôi ra đi, với bộ mặt đen
như đám khói này, đã không mất hơn một giờ đồng hồ; có lẽ tối đa
là một tiếng rưỡi! Nhưng tôi đã để lại cái nhà này sạch sẽ cũng
như một cái hộp mới. Tôi có mang theo một tờ báo New York Herald
tôi trải nó lên trên cái kệ của họ. Và này, ông Stephens, tôi đi
rửa tay ở bên ngoài, và khi tôi trở vào, lũ trẻ con vẫn còn
những con mắt bám đầy ruồi, và chúng không thay đổi gì cả, trừ
việc mỗi đứa đội trên đầu một cái mũ nhỏ của lính sen đầm làm
bằng tờ báo New York Herald của tôi. Nhưng Sadie này, sắp mười
giờ rồi, và cuộc du ngoạn ngày mai khởi hành sớm đó!

"Thật là tuyệt đẹp, bầu trời đỏ tía và những ngôi sao lớn bàng
bạc!" Sadie lẩm bẩm nói "Hãy nhìn bãi sa mạc im lìm, và những
bóng đen của các ngọn núi. Thật là đáng sợ!" Nhưng cũng khủng
khiếp nữa. Khi người ta nghĩ rằng chúng ta đang thật sự ở chỗ
rìa của nền văn minh, như anh thông ngôn vừa mới nói, không có
gì khác hơn là sự man rợ và máu chảy tràn trề ở nơi xa kia mà
chòm sao chữ thập chiếu sáng một cách quá đẹp này; người ta có
cảm tưởng là đang đứng trong thế thăng bằng trên miệng một ngọn
núi lửa!"

"Suỵt, Sadie! con ơi, chớ có nói nhảm nhí!" người cô kêu lên.
"Con có thể gây ra mối lo sợ cho những ai nghe thấy con nói đó".


- Nhưng cô ơi, chính cô không cảm thấy điều đó à? Hãy nhìn bãi
sa mạc lớn này, nó biến mất trong đêm tối mịt mù. Cô hãy nghe
tiếng sì sào buồn bã của cơn gió đang thổi bên trén! Cháu chưa
bao giờ nhìn thấy một quang cảnh thiêng liêng hơn!

- Cô lấy làm sung sướng là sau cùng chúng ta đã tìm thấy một
điều gì làm cho cháu trở nên trang nghiêm, cháu thân mến ạ! Ðôi
khi cô nghĩ... nhân danh những người còn sống, điều đó là gì
vậy?

Từ một nơi nào đó giữa các bóng đen của những ngọn núi, ở phía
bên kia mặt nước, một tiếng kêu sắc nhọn vang lên. Tiếng kêu vút
lên trên bầu trời đầy sao, và chấm dứt bằng sự tắt nghẹn đi
trong một thứ rên rỉ ai oán.

"Ðó chỉ là một con chó rừng, cô Adams ạ" Stephens giải thích.
"Tôi đã nghe thấy một con chó rừng kêu như vậy khi chúng tôi đi
xem tượng Sphinx dưới ánh trăng sáng.

Nhưng cô gái Mỹ đã đứng lên, nét mặt cô biểu lộ một sự bối rối
sâu đậm.

Cô nói.

- Nếu có một chuyến du lịch nữa, cô sẽ không xuống quá phía bên
kia Assouan. Cô không biết cái gì đã xui khiến cô đưa cháu đến
tận nơi này, Sadie ạ, mẹ cháu sẽ nghĩ rằng cô đã hoàn toàn điên
rồ, và nếu có một sự cố rắc rối nào xảy ra thì chắc không bao
giờ cô còn dám nhìn thấy mặt mẹ cháu nữa. Cô đã nhìn thấy trên
con sông này tất cả những gì mà cô muốn nhìn; cô muốn quay trở
về Le Caire ngay.

Sadie phản đối:

- Ô kìa. cô ơi! Nhút nhát như vậy thật chẳng giống cô một chút
nào!

- Sadie này, cô không biết cô có những tính gì, nếu không phải
là những dây thần kinh bị căng thẳng, và cái con thú kêu meo meo
ở đằng kia là quá lắm rồi. Cô tự an ủi khi nghĩ rằng ngày mai
chúng ta sẽ quay về sau khi xem ngọn núi này hoặc ngôi đền này,
cô không biết hơn nữa. Cô đã chán ngấy với núi non và đền đài
rồi. Ông Stephens ơi! Tôi sẽ rất sung sướng nếu tôi không nhìn
thấy thêm một trái núi, một ngôi đền nào nữa trong suốt đời tôi.
Lại đây, Sadie! Chúc ngủ ngon!

- Chúc ngủ ngon! Chúc ngủ ngon, Cô Adams!

Bà cô và người cháu gái trở về phòng của họ.

Ông Fardet thầm thì to nhỏ nói chuyện vãn với Headingly, chàng
thanh niên vừa tốt nghiệp ở Harvard giữa hai hơi thuốc lá, ông
cúi khom người xuống để giải bày tâm sự với ông ta.

"Những tu sĩ Hồi giáo à, ông Headingly?" ông nói với một thứ
tiếng Anh tuyệt hảo, nhưng thường tách rời các vần như phần lớn
những người Pháp. "Nhưng không có các tu sĩ Hồi giáo đâu. Những
tu sĩ Hồi giáo không hiện hữu mà!".

Ông người Mũ trả lời:

- Tôi thì tôi tin rằng sa mạc đầy rẫy các tu sĩ Hồi giáo đó. Ông
Fardet ném một cái nhìn xéo tới chỗ mà đóm lửa đỏ của điếu xì gà
của đại tá Cochrane đang lập lòe trong bóng tối mù mịt. Ông nói
lẩm bẩm.

- Ông là người Mỹ, và ông không thích người Anh. Tất cả mọi
người trên lục địa đều biết rằng người Mỹ hận thù người Anh.

- "Thú thật" Headingly nói với một giọng thong thả và chín chắn.


"Tôi không chối cãi là chúng tôi đã có những xích mích nhỏ, và
một số người trong các đồng bào của tôi nhất là những người gốc
gác Ái Nhĩ Lan, là những người bài Anh một cách điên cuồng; tuy
nhiên đại đa số người Mỹ không nghĩ một điều gì xấu về mẫu quốc.
Ðôi khi những người Anh có thể làm chúng tôi tức giận, nhưng họ
là người trong gia đình chúng tôi, không bao giờ chúng tôi quên
điều đó."

Ông người Pháp nói:

- Cho là thế đi! Ít nhất tôi đã có thể thổ lộ tâm tình với ông
vì tôi không thể nói thế với những người khác mà không làm họ
phật ý. Và tôi nhắc lại rằng không làm gì có những tu sĩ Hồi
giáo. Những tu sĩ Hồi giáo đã được bịa đặt ra bởi Lord Cromer
năm 1885.

Headingly kêu lên.

- Ông nói năng không nghiêm chỉnh đấy!

- Ðó là một việc ai cũng biết ở Paris; nó đã được công bố bởi tờ
La Patrie và những nhật báo thạo tín khác.

- Nhưng chuyện này là quan trọng đó! ông Fardet này, có phải từ
việc này ông muốn nói rằng cuộc bao vây Khartoun và cái chết của
Gordon, và tất cả những chuyện còn lại đều thuộc về một sự bịp
bợm lớn lao không?

- Tôi không chối cãi là một vụ bạo động đã xảy ra, nhưng vụ đó
chỉ là một sự cố địa phương, ông hiểu chứ? Một sự cố đã bị quên
lãng từ lâu rồi. Từ đó nước Soudan đã được hưởng một nền hòa
bình thật sự.

- Nhưng, thưa ông Fardet, tôi có nghe nói về những vụ cướp bóc
và tôi đã đọc những báo cáo về các trận đánh nhau nữa, khi người
Ả Rập toan tính xâm chiếm Ai Cập. Ngày hôm kia chúng ta đã vượt
khỏi Toski; anh thông ngôn đã nói cho chúng ta biết là một trận
đánh đã diễn ra ở đó. Việc này cũng là bịp bợm?

- Hừm, ông bạn của tôi ơi, ông không biết người Anh đâu! Ông
nhìn thấy họ hút ống píp và nét mặt rạng rỡ, rồi ông nói: "Ðây
thật là những người dũng cảm, những con người giản dị, những
người không làm thương tổn cả đến một con ruồi!" Nhưng lúc nào
họ cũng đắn đo suy nghĩ, họ rình rập, họ thảo ra những kế hoạch.
"Ðây là nước Ai Cập yếu kém, họ nói. Chúng ta hãy tới đó!"

và họ chồm vào nước này như một con chim âu chồm lên một miếng
bánh. Cả thế giới lên tiếng phản kháng. "Các ông không có quyền
gì trên nước Ai Cập. Các ông cút đi!" Nhưng nước Anh đã bắt đầu
thiết lập trật tự khắp nơi, giống hệt như cô Adams tốt bụng kia
khi cô ấy chiếm cứ căn nhà một người Ả Rập. "Các ông cút đi!".
mọi người trên thế giới nhắc lại câu nói "nhất định rồi, nước
Anh đáp lại. Hãy đợi một phút thôi, để tôi có thì giờ làm cho
tất cả đều sạch sẽ và gọn ghẽ". Rồi thế giới chờ đợi trong một
năm hay hai năm, rồi họ lại nhắc nhở "Các ông hãy cút đi!" Và
nước Anh lại trả lời: "Hãy kiên nhẫn một chút: có sự lộn xộn ở
Khartoum; khi nào sự yên tĩnh được vãn hồi, tôi sẽ rất hài lòng
để đi khỏi". Và thế giới kiên nhẫn chờ đợi. Nhưng khi sự lộn xộn
ở Khartoum đã chấm dứt, thế giới lại đòi nước Anh phải ra đi.
Nước Anh hỏi: "Làm sao tôi có thể ra đi khi còn những vụ cướp
bóc và những trận chiến đang diễn ra? Nếu tôi đi khỏi thì Ai Cập
sẽ làm mồi cho lũ man di!" Và thế giới lấy làm kinh ngạc: "Không
có những vụ cướp bóc, không có cả những trận đánh nhau!" Lúc đó
nước Anh nói: "À, không có thật à?" Và trong tuần lễ sau đó báo
chí của họ đã tràn đầy những bài tường thuật về các trận đột
kích và các cuộc chinh phạt của các tu sĩ Hồi giáo. Không phải
tất cả chúng tôi đều mù, ông Headingly ạ! Chúng tôi hiểu rất rõ
cách thức người ta xếp đặt các công việc: một vài tên Bédonins,
một khoản tiền thưởng nhỏ, nhưng viên đạn không đầu chì, và hãy
chú ý một vụ cướp bóc!

"Ðược, được!" ông người Mỹ nói "Tôi lấy làm hân hạnh, được biết
sự thật về vụ này, vì nó thường làm cho tôi quan tâm tới, nhưng
trong vụ này thì nước Anh được lợi lộc gì?"

- Thưa ông, một đất nước.

- Tôi biết. Ông muốn nói là chẳng hạn là có một quan thuế biểu
ưu đãi cho các hàng hóa của nước Anh phải không?

- Thưa ông, không ạ. Quan thuế biểu giống nhau cho tất cả mọi
nước.

- Vậy thì hẳn là người Anh đã ký được các hợp đồng?

- Thưa ông, đúng như vậy.

- Thí dụ con đường sắt mà người ta làm dọc theo con sông và nó
chảy ngang qua nước này đã là đối tượng một hợp đồng béo bở cho
một công ty Anh phải không?

Ông Fardet có đầu óc tưởng tượng, nhưng ông ấy là người thật
thà.

- Thưa ông, đó là một công ty của người Pháp đã ký được hợp đồng
làm con đường sắt.

Ông người Mỹ ngạc nhiên, ông nói:

- Người Anh không có vẻ là đã kiếm được nhiều lợi lộc so với
những khó khăn mà họ phải gánh chịu. Nhưng cuối cùng họ cũng
phải hưởng được một vài mối lợi gián tiếp, chẳng hạn chắc chắn
là Ai Cập phải trả tiền phí tổn cho tất cả những binh lính mặc y
phục màu đỏ đó ở Le Caire chứ gì?

- Thưa ông, Ai Cập à? Không, những binh lính đó do nước Anh trả
lương.

- Ðược rồi, không phải nhiệm vụ của tôi để nói với người Anh
rằng họ làm cách nào để điều hành các quyền lợi của họ, nhưng
tôi có cảm tưởng là họ tự làm khổ mình rất nhiều cho những thứ
chẳng đáng bao nhiêu ! Nếu họ thích duy trì trật tự và bảo vệ
biên cương với giá một cuộc chiến liên miên chống lại các tu sĩ
Hồi giáo, thì tôi không hiểu tại sao có người lại lấy việc này
ra để công kích. Sự thịnh vượng của đất nước đã gia tăng một
cách đáng kể từ khi họ đến đây: những bản thống kê về sự thu
nhập đã chứng tỏ điều này. Người ta cũng bảo đảm với tôi rằng
hiện nay những dân nghèo đã được thừa nhận quyền lợi, điều này
chưa từn bao giờ đã đến với họ.

"Nhưng nếu vậy thì họ ở đây làm gì?" ông người Pháp tức tối la
lên. "Họ hãy trở về hải đảo của họ đi! chúng ta không thể dung
thứ được việc họ cứ lan tràn như vậy trên khắp thế giới".

- Dĩ nhiên là người Mỹ chúng tôi, chúng tôi sống ở nước chúng
tôi trên mảnh đất của riêng chúng tôi, chúng tôi thấy khó chịu
phải nhìn nhận rằng các ông, những dân tộc âu châu, lúc nào các
ông cũng tràn lan, vào những nước khác là những nước hoàn toàn
xa lạ với các ông. Tất nhiên chúng tôi dám mạnh miệng nói như
vậy, vì dân tộc chúng tôi có nhiều đất đai hơn sự cần thiết. Khi
nào chúng tôi bắt đầu thặng dư dân số, chúng tôi cũng sẽ phải
tiến hành các cuộc thôn tính. Nhưng hiện giờ thì chỉ riêng ở Bắc
Phi thôi đã thấy nước Ý ở Abyssinie, nước Anh ở Ai Cập, nước
Pháp ở Algerie...

Ông Fardet nói lớn tiếng:

- Nước Pháp! nhưng Algerie là thuộc về nước Pháp! Thưa ông, ông
cười à? Tôi rất hân hạnh chúc ông một đêm ngủ ngon!

Bực bội trong lòng tự tôn ái quốc bị xúc phạm, ông đứng dậy đi
về phòng mình.

Hãy cảm ơn bài viết của donka bằng cách bấm vào "" ở bên dưới nhé!!!

Về Đầu Trang Go down

https://dlthanh.forumvi.com

donka
donka

//dondonitt

Tổng số bài gửi : 143
Points : 425
Reputation : 25
Join date : 06/06/2011

Bài gửiTiêu đề: Re: Tấn Thảm Kịch Của Tàu korosko Tấn Thảm Kịch Của Tàu korosko Icon_minitimeThu Jun 09, 2011 10:56 am

Chương 2:

Người đàn ông Mỹ ngẩn ngơ một lát ông muốn lên bộ để gửi bưu
điện bài tường thuật về những cảm tưởng trong chuyến du hành mà
ông thường gửi hàng ngày cho chị gái ông, nhưng những điếu xì gà
của đại tá Cochrane và Cecil Brown vẫn còn đỏ lập lòe ở đầu bên
kia của boong tàu, và ông thì lúc nào cũng rình rập để lấy các
tin tức. Ông không biết cách làm thế nào xen vào cuộc đàm thoại
của họ, nhưng ông đại tá đã đẩy lại phía ông một cái ghế đẩu và
gọi ông.

- Headingly, lại đây! Ðây là nơi lý tưởng cho một sự giải độc.
Tôi tin chắc rằng Fardet vừa mới nói với ông về chính trị.

"Tôi luôn luôn nhận ra lối đề cập tới vấn đề chính trị quốc tế
của ông ấy, chỉ cần trông thấy ông ấy cúi vai xuống để xông vào
những cuộc bàn bạc thân mật", nhà ngoại giao sang trọng nói.
"Nhưng đó là một sự xuẩn ngốc quá chừng vào một buổi tối như tối
hôm nay! Mặt trăng mọc trên sa mạc thế này hứa hẹn với chúng ta
một bầu trời đêm kỳ diệu màu xanh và trắng bạc. Trong một bản
nhạc của Mendel-Sohn đã có một tình cảm hình như bao gồm được
tất cả những điều đó: một sự cảm xúc về vô biên, về sự nhắc nhở,
tiếng gió hú bên các khoảng không vô tận. Âm nhạc là nghệ thuật
diễn dịch các cảm hứng vi diệu mà các từ ngữ không diễn tả
được".

Ông người Mỹ đã ra nhận xét:

- Ðêm hôm nay tôi thấy phong cảnh có vẻ man rợ hơn, dữ tợn hơn
bao giờ hết. Nó cho tói cảm giác của một sức mạnh tàn nhẫn,
giống hệt như Ðại Tây Dương vào một ngày lạnh lẽo và u ám của
mùa đông. Có lẽ cảm giác này nảy sinh ở việc là chúng ta biết
rằng chúng ta đang ở chỗ ranh giới cùng cực của tất cả các loại
pháp luật và các nền văn minh. Thưa đại tá Cochrane, theo ý ông
thì chúng ta còn cách những tu sĩ Hồi giáo bao xa?

Vị đại tá trả lời.

- Trên mạn bờ thuộc Ả Rập, chúng ta có đồn binh Ai Cập ở Sarras
vào khoảng sáu mươi cây số về phía Nam của chúng ta. Bên ngoài
nơi đó là những miền đất rất hoang vu nằm dài một trăm cây số
trước mặt đồn canh của các tu sĩ Hồi giáo ở Akashek. Nhưng ở bờ
bên kia thì không có một vật gì giữa họ và chúng ta.

- Abousir nằm ngay trên bờ bên đó phải không?

- Phải. Ðó là lý do tại sao hồi năm ngoái chuyến du hành đã bị
ngăn cấm. Nhưng bây giờ thì sự yên tĩnh đã trở lại.

- Ai có thể ngăn không cho bọn tu sĩ Hồi giáo tràn vào nơi này?


"Hoàn toàn không có gì cả"!. Cecil Brown đáp lại với một giọng
hững hờ.

- Không có gì cả, ngoại trừ sự sợ hãi. Chắc chắn là họ có thể
đến không khó khăn gì! Nhưng sự trở về sẽ nguy hiểm hơn: những
con lạc đà kiệt sức của họ sẽ là những mồi ngon cho những con
ngựa khỏe mạnh của đạo quân đồn trú ở Ouadi-Halfa. Họ cũng biết
rõ điều này như chúng ta vậy : đó là lý do tại sao không bao giờ
họ dám liều lĩnh làm việc đó.

Brown nói lớn:

- Suy luận về một cảm giác sợ hãi của những tu sĩ Hồi giáo là
một điều không hợp lý. Không bao giờ chúng ta được quên rằng họ
không tuân theo các động lực giống như những dân tộc khác. Họ
đông người và mong mỏi được chết, và họ nhất trí tin tưởng một
cách mù quáng vào định mệnh, người ta có thể coi họ là một sự
ngoan cố tột cùng của tất cả các điều dị đoan, và chính đó là
bằng chứng cho thấy sự cuồng tín và dị đoan đã dẫn con người
thẳng tới tình trạng man rợ!

Ông người Mỹ hỏi:

- Ông có tin rằng dân tộc này tiêu biểu cho một sự đe dọa thật
sự đối với Ai Cập không? Tôi đã từng nghe thấy nhiều ý kiến khác
nhau về vấn đề này, chẳng hạn như ông Fardet, ông ấy không nghĩ
rằng mối hiểm nguy là rất cấp bách.

Ðại tá Cochrane trả lời, sau một sự yên lặng ngắn ngủi.

- Tôi không phải là người giàu có, nhưng tôi sẵn sàng đánh cuộc
tất cả những gì mà tôi có là trong ba năm sau khi các sĩ quan
Anh đi khỏi, những tu sĩ Hồi giáo sẽ tới bờ biển Ðịa Trung Hải.
Lúc đó thì nền văn minh Ai Cập sẽ ra sao? Hàng trăm triệu bạc đã
được đầu tư vào nước này sẽ ra sao? Và những đền đài mà cả thế
giới đều ngưỡng mộ và sùng kính và đó là những công trình quí
giá nhất của cổ thời sẽ ra sao?

Headingly cười lớn phản đối:

- Này, ông Ðại tá! Không phải là ông cũng định nói rằng họ sẽ
phá hủy các Kim Tự Tháp đấy chứ?

- Không thể đoán trước được là họ sẽ làm gì! Không có một kẻ bài
trừ thánh tượng nào lại điên cuồng hơn là một tên Hồi giáo cuồng
tín. Trong cuộc xâm nhập cuối cùng của họ vào Ai Cập, các tu sĩ
Hồi giáo đã đốt cháy thư viện ở Alexandrie: Ông biết rằng kinh
Coran đã cấm đoán tất cả mọi sự hình dung cái mặt của con người.
Do đó dưới mắt họ một pho tượng là một vật chống tôn giáo. Và
bọn người man rợ này coi các cảm tính của Âu Châu như một điều
xui xẻo. Ngược lại: họ càng lăng nhục chúng thì họ càng khoan
khoái. Tượng Sphinx sẽ bị hạ xuống, pho tượng Colorse sẽ bị hạ
xuống! Giống hệt như ở nước Anh, trước các quân lính của
Cromwell, các vị thánh đều bị quăng xuống đất.

"Ta hãy xét kỹ một chút" Headingly nói với sự chậm chạp chín
chắn của ông ấy. "Ta hãy chấp nhận rằng bọn tu sĩ Hồi giáo có đủ
khả năng chinh phục Ai Cập và ta cũng chấp nhận là người Anh các
ông ngăn cản họ làm việc đó. Nhưng vì lý do nào mà các ông chi
ra nhiều triệu đô la đó và các ông hy sinh bao nhiêu sinh mạng
người Anh như vậy? Các ông kiếm được bao nhiêu lợi lộc hơn là
nước Pháp, nước Ðức hoặc bất cứ một nước nào không gánh chịu một
sự rủi ro nào và không tiêu tốn một xu nào?

Cecil Brown trả lời:

- Nhiều người Anh hiền lành cũng đặt ra câu hỏi như vậy. Theo ý
tôi thì từ khá lâu rồi chúng tôi đã là những viên cảnh sát của
thế giới: chúng tôi đã quét sạch bọn kẻ cướp và bọn buôn nô lệ
khỏi các đại dương; hiện nay chúng tôi giải phóng trái đất khỏi
tay các tu sĩ Hồi giáo và tất cả những lũ giặc cướp đe dọa nền
văn minh. Nếu những người Kurdes quấy rối trật tự công cộng ở
Tiểu Á-tế-á, nhân dân trên thế giới muốn biết rằng tại sao Anh
Quốc lại không trừng trị họ. Nếu xảy ra một cuộc binh biến ở Ai
Cập hay ở Soudan, cũng vẫn là Anh Quốc có nhiệm vụ dẹp tan nó.
Và tất cả công việc đó giữa những lời nói xấu cùng một giọng
điệu khắp nơi, giống như một nhân viên cảnh sát đã nghe thấy khi
anh ta bắt giữ một tên côn đồ trong một ngõ hẻm tối tăm. Chúng
tôl chỉ nhận được những lời nói xấu và không có một lời cám ơn
nào. Tại sao phải kiên trì như thế? Tốt nhất là ta nên để cho Âu
Châu tự mình hoàn thành cái công việc bạc bẽo này.

"Thú thật là" đại tá Cochrane nói trong khi bắt chéo chân lên và
khom mình về phía trước với vẻ cương quyết của một người đã có
một ý kiến vững vàng "tôi không đồng ý với ông một chút nào, ông
Brown ạ! và tôi cho rằng sự hẹp hòi trong lý luận của ông không
phù hợp với những bổn phận của Anh Quốc. Tôi nghĩ rằng đằng sau
các quyền lợi quốc gia, đằng sau công việc ngoại giao và tất cả
mọi thứ còn lại, còn có một mãnh lực chủ đạo nữa (thực sự là một
thiên mệnh) là điều từ xưa vẫn luôn luôn gạn lọc lấy phần tinh
hoa nhất của mỗi dân tộc và dùng nó để làm điều tốt đẹp cho cả
loài người. Khi một dân tộc thôi không tuân theo điều này tức là
nó đã cằn cỗi để nằm trong cơn bệnh hoạn vài ba thế kỷ, như kiểu
nước Tây Ban Nha hay nước Hy-Lạp: đó là vì những phẩm chất tốt
đã rời bỏ họ, một người hay một quốc gia không phải chỉ được
sinh ra trên trái đất này để làm việc gì thích thú hay việc gì
mang lại lợi lộc. Thường khi người ta đòi hỏi chúng ta phải làm
những việc vừa buồn chán, vừa tốn kém, nhưng nếu công việc là
chính đáng thì chúng ta phải tiến lên và không lẩn tránh... "


Headingly gật đầu tán thành.

-... Mỗi nước có một sứ mạng riêng của mình ! Nước Ðức thì vượt
trội trong tư tưởng trừu tượng; nước Pháp thì trong văn chương,
trong nghệ thuật và sự thanh lịch. Nhưng các ông và chúng tôi
(tất cả những người nói tiếng Anh đều ở trên một con tàu), chúng
ta có trong giới thượng lưu của chúng ta một quan niệm cao cả
hơn về tinh thần đạo đức và về nhiệm vụ chung so với bất kỳ một
dân tộc nào khác mà đó là hai đức tính cần phải có để dẫn dắt
một chủng tộc yếu kém hơn. Các ông không thể giúp đỡ các dân tộc
yếu kém bằng tư tưởng trừu tượng hoặc bằng các nghệ thuật mua
vui, nhưng chỉ có thể bằng cái tinh thần đạo đức này, nó giữ
thăng bằng cho cán cân công lý và nó tự giữ được trong trắng,
tránh khỏi mọi hoen ố. Ðó là cách mà chúng tôi cai trị Ấn Ðộ.
Chúng tôi đã tới nơi đó bởi kết quả của một thứ luật thiên
nhiên, giống hệt như không khí ùa vào để lấp kín một chỗ trống.
Ở khắp mọi nơi trên thế giới, đi ngược lại với quyền lợi trực
tiếp của chúng tôi và bất chấp những ý định có sẵn của chúng
tói, chúng tôi đã bị đưa đẩy tới chỗ phải làm cùng một việc như
vậy. Ðiều này rồi sẽ đến với cả các ông đó: áp lực của định mệnh
sẽ ép buộc các ông phải điều khiển tất cả Mỹ Châu, từ Mễ Tây Cơ
cho tới mũi Horn.

Headingly bật ra một tràng huýt gió.

"Những anh ái quốc cuồng tín hẹp hòi của chúng tôi sẽ rất sung
sướng được nghe ông nói đấy, đại tá Cochrane ạ!", ông ta nói.
"Họ bỏ phiếu cho ông ở Thượng viện và sẽ làm ông trở thành một
ủy viên của ủy ban ngoại vụ đấy!"

- Thế giới thì nhỏ bé, và mỗi ngày nó một thu nhỏ hơn. Nó tạo ra
một cơ thể duy nhất: sự thối mục ở một địa phương sẽ có thể lan
truyền và làm ung thối tất cả toàn thể. Trên trái đất không có
chỗ cho những chính phủ gian lận, không làm tròn những lời cam
kết, chuyên chế, vô trách nhiệm. Sự tồn tại của họ bao giờ cũng
là nguồn gốc của các vụ lộn xộn và hiểm nguy. Nhưng nhiều chủng
tộc có vẻ như quá bất lực trong sự tiến bộ khiến ta không thể hy
vọng một ngày nào đó họ có được một chính quyền tốt. Vậy thì ta
phải làm gì? Ngày xưa Thượng đế giải quyết vấn đề bằng sự tận
diệt một Attila, một Tamerlan đã tỉa bớt những cành yếu kém
nhất. Ngày nay thì những qui luật ít nghiêm ngặt hơn đã được
thay vào đó: những Phó Vương ở Trung Á và những Quốc gia bảo hộ
ở Ấn Ðộ là bằng chứng về điều này. Vì công cuộc này phải được
hoàn thành, và bởi vì chúng tôi là những người có trang bị tốt
nhất để thành công trong việc này, tôi nghĩ rằng bác - khước
chúng tôi sẽ là một sự hèn nhát và một tội ác.

Ông người Mỹ phản đối.

- Nhưng ai giải quyết vấn đề để biết rằng các ông có phải là
những người được trang bị tốt nhất để can thiệp hay không? Bất
kỳ một quốc gia ăn cướp nào cũng có thể sử dụng chiêu bài này để
thôn tính toàn thể trái đất.

- Chính những biến có sẽ giải quyết vấn đề. Những biến cố tàn
khốc và không thể tránh được. Thí dụ ông hãy xem vụ Ai Cập đó.
Vào năm 1881, ở nước chúng tôi không ai nghĩ tới việc can thiệp
ở Ai Cập. Vậy mà năm 1882 chúng tôi đã chiếm giữ nước này. Sự
tiếp diễn của các biến cố không để cho chúng tôi một sự lựa
chọn. Một vụ tàn sát trong các phố ở Alexandrie, việc bố trí các
súng đại bác để xua đuổi hạm đội của chúng tôi đang có mặt tại
đó để làm tròn các trách vụ thiêng liêng của - một thỏa ước, như
ông đã biết đó, đã khơi ngòi cho cuộc oanh kích. Cuộc oanh kích
đã khai mào cho một cuộc đổ quân nhằm giải cứu thành phố khỏi bị
hủy diệt. Cuộc đổ bộ dẫn tới sự mở rộng các cuộc hành quân... Và
chúng tôi đang ở đây để trông nom, săn sóc đất nước này. Khi
những vụ lộn xộn bùng lên, chúng tói đã khẩn cầu, năn nỉ người
Pháp và nhiều nước khác tới giúp chúng tôi vãn hồi trật tự : họ
đều ngoảnh mặt làm lơ, nhưng họ đã sẵn sàng để công kích chúng
tôi. Khi chúng tôi định ra khỏi cái tổ ong vò vẽ này thì vụ nổi
loạn của các tu sĩ Hồi giáo bùng ra, và chúng tôi đã phải trụ
lại một cách vững chắc hơn bao giờ hết. Chúng tôi đã không đòi
hỏi nhiệm vụ này; nhưng khi chúng tôi bị bắt buộc phải hoàn
thành nó, thì ít nhất chúng tôi cũng phải làm cho tốt. Chúng tôi
đã thiết lập công lý, thanh lọc bộ máy cai trị, bảo vệ những dân
nghèo. Nước Ai Cập, đã tiến bộ nhiều hơn trong vòng mười hai năm
qua, so với suốt cuộc xâm lăng của Hồi giáo từ thế kỷ mười bảy.
Ngoài số lương của hai trăm người, những người này lại tiêu tiền
của họ ở ngay trong nước Anh Quốc đã không lấy đi một cách trực
tiếp hay gián tiếp, một xu nào trong suốt công cuộc này. Tôi
không tin rằng ông lại có thể tìm ra trong lịch sử một sự nghiệp
thành công tốt đẹp và vị tha hơn thế.

Headingly hít một hơi thuốc lá trong khi suy nghĩ.

"Ở Boston có một ngôi nhà gần với nhà chúng tôi" ông nói, "đã
làm hư hại tất cả vẻ đẹp trên vùng biển. Những cái ghế bành cũ
nát quăng bừa bãi trên sân đất trước nhà, những bức tường sụp
đổ, khu vườn là một bãi bụi hoang, nhưng tôi không nghĩ rằng
những người hàng xóm có ý định xâm nhập bằng bạo lực để cư ngụ
tại đó và để xếp đặt các đồ vật theo sở thích của họ".

Ông đại tá hỏi:

- Nhưng nếu ngôi nhà bốc cháy thì sao?

Headingly cười lớn và đứng lên ông nói.

- Thưa ông đại tá, trường hợp này không được tiên liệu bởi chủ
thuyết Monroe! Tôi bắt đầu nhận thức được rằng nước Ai Cập hiện
đại cũng hoàn toàn thú vị như nước Ai Cập cổ đại và rằng vua
Ramsès đệ nhị đã không phải là người đàn ông cuối cùng sống ở
nước này.

Ðến lượt họ, cả hai người Anh cùng đứng lên.

- Phải, đó là một sự mỉa mai của định mệnh đã xui khiến những cư
dân một hòn đảo nhỏ trên Ðại Tây Dương cai trị mảnh đất của các
vị Hoàng đế Ai Cập". Cecil Brown đưa ra lời nhận xét. "Ðến lượt
chúng ta, chúng ta sẽ tự tàn lụi, và chúng ta sẽ không để lại
một kỷ niệm đặc biệt nào trong số những chủng tộc khác nhau đã
cai trị đất nước này, vì người Anh không có thói quen khắc các
hành động của họ lên đá. Những dấu vết của một hệ thống thoát
nước ở Le Caire chắc chắn sẽ là vết tích duy nhất của sự dừng
chân của chúng tôi ở đây. Vậy mà rất có thể là sau đây một ngàn
năm những nhà khảo cổ sẽ cho rằng công trình này đã được thực
hiện bởi triều đại Hyksos. Nhưng kìa những bạn đồng hành khác
của chúng ta đi dạo chơi thành phố đã trở về rồi.

Thật vậy, ở phía dưới họ, họ đã nghe thấy giọng nói Ái Nhĩ Lan
êm ái của bà Belmont và tiếng nói trầm trầm của ông chồng bà.
Ông Stuart vị mục sư to lớn của Birmingham đang tranh cãi về vấn
đề những đồng bạc với một anh chàng dắt lừa lắm mồm; những ý
kiến và lời khuyên can tuôn ra từ khắp mọi phía. Rồi sự thỏa
thuận được dàn xếp xong, tiếng ồn ào giảm dần, những người về
muộn leo lên cầu thang, những tiếng "Chúc ngủ ngon" được trao
đổi, những cánh cửa sập mạnh và con tàu nhỏ trở lại yên lặng
trong bóng tối của bờ cao của con sông. Ở bên kia cái điểm cùng
cực này của nền văn minh và sự tiện nghi, trải dài một bãi sa
mạc vô biên, man rợ, vĩnh cửu, màu rơm dưới ánh trăng, lốm đốm
những bóng đen xì của những dãy núi.




Chương 3:

“Đứng lại! Lui lại" viên hoa tiêu người bản xứ quát bảo anh thợ
máy người Âu Châu.

Cái phần mũi phình ra của con tàu xẹp xuống trên vũng bùn trơn
tuột màu nâu, và dòng nước đã đẩy con tàu đi song song với bờ
sông. Ngay sau khi cái cầu phao dài được thả xuống, sáu người
lính lực lưỡng của đoàn hộ tống người Soudan đã bắt tay vào công
việc. Dưới ánh sáng trong trẻo của buổi ban mai, họ có dáng bộ
rất đẹp, với những bộ đồng phục màu xanh nhạt viền vàng và những
chiếc mũ ca rô màu đỏ và vàng. Trên bờ sông, những con lừa được
sắp đứng thành hàng, và lũ trẻ con làm ngột ngạt không khí với
những tiếng reo hò của chúng. Những lời reo hò này là dành cho
người nào bằng một kiểu cách bén nhọn nhất biểu dương được các
phẩm chất của con lừa của mình và dèm pha các phẩm chất của con
bên cạnh.

Ðại tá Cochrane và ông Belmont cùng đứng trên mũi tàu, họ đội
cái mũ trắng rộng vành cùng với cái khăn che mặt của khánh du
lịch. Cô Adams và người cháu gái đứng tựa vào tấm lan can tàu
bên cạnh họ.

Ông đại tá nói:

- Tôi lấy làm tiếc rằng quí phu nhân đã không cùng đi với chúng
ta, ông Belmont ạ.

- Tôi nghĩ rằng hôm qua bà ấy đã bị ngã nắng qua loa; bà ấy nhức
đầu lắm.

Ông ấy có giọng nói của cái bóng của ông ấy : mạnh mẽ và mập
mạp.

"Tôi tình nguyện ở lại để bầu bạn với bà ấy, ông Belmont ạ" cô
gái già người Mỹ nói. "Nhưng tôi nghe nói là bà Shlesinger thấy
cuộc du ngoạn quá dài và bà ấy có nhiều thư từ phải viết để hôm
nay gửi bưu điện, như vậy là bà Belmont sẽ không cảm thấy quá
đơn độc nữa".

- Cô rất khả ái, cô Adams ạ. Có lẽ chúng tói sẽ quay về vào lúc
hai giờ đó.

- Chắc vậy không?

- Chắc chắn mà. Chúng tôi không mang theo bữa ăn sáng. Chúng tôi
sẽ đói ngấu!

"Phải, tôi có cảm tưởng là chúng tôi sẽ chạy xô tới một cốc rượu
vang Rhin và nước có hơi" ông đại tá phát biểu đồng tình. "Bụi ở
sa mạc sẽ làm cho chúng tôi thấy thứ rượu vang tệ nhất cũng
khoái khẩu rồi!"

"Bây giờ, thưa các quí bà và các quí ông!" Mansoor, anh thông
ngôn đang đi tới và nói lớn (người ta có thể nói đó là một vị
linh mục với cái áo dài của anh ta bay phất phới trước gió và bộ
mặt cạo nhẵn nhụi của anh ta) "Chúng ta phải khởi hành sớm để
tránh cái nóng buổi trưa...".

Cái nhìn trìu mến của anh lướt qua nhóm du khách ít ỏi.

- Cô Adams, xin cô hãy đeo kính màu vào, vì trong sa mạc sự phản
xạ rất mạnh. À, ông Stuart, tôi đã dành cho ông một con lừa! Một
con lừa hảo hạng đấy, thưa ông, con lừa mà tôi thường vẫn để
dành cho vị khách nào cường tráng nhất. Quí vị không cần đem
theo vé. Bây giờ, thưa các quí bà và các quí ông, xin quí vị vui
lòng!

Người này nối theo người nọ, các du khách đi qua cầu tàu. Ông
Stephens đi đầu, người gầy gò, khô khỏng, nghiêm nghị, đầu đội
một cái mũ rơm, quyển sách hướng dẫn cắp trong cánh tay, ông
giúp cho cô Sadie và bà cô của nàng leo lên bờ và tiếng cười của
cô thiếu nữ vang lên tươi mát và trong trẻo khi quyển sách hướng
dẫn tuột ra và rơi xuống rìa vũng bùn. Ông Belmont và đại tá
Cochrane đi theo sau, những cái vành mũ của họ chạm vào nhau vì
họ tranh luận với nhau về các ưu điểm của các loại súng Mauser,
Lebel và Lee-Metford. Ðằng sau họ Cecil Brown bước đi một cách
lơ đãng, với cái nhìn châm chọc, lặng lẽ. Vị mục sư cao lớn dùng
thì giờ để leo lên đỉnh cao của bờ dốc. Vừa leo vừa càu nhàu về
thân hình phì nộn của ông.

"Tôi thuộc vào loại những người mang tất cả mọi thứ ở phía trước
họ", ông vừa rên rỉ vừa nhăn nhó nhìn thân thể tròn vo của ông.
Những lời nói đùa của chính ông đã làm ông tươi tỉnh lại và ông
cố nén một tiếng cười nhỏ.

Headingly, người cao và gầy, lưng hơi gù, và Fardet, người dân
thành phố Paris, người thích lý luận, là hai người đi sau cùng.


Người đàn ông Pháp thì thầm với ông người Mỹ.

- Ông thấy đó, hôm nay chúng ta có một toán hộ tống!

- Vâng, tôi đã nhận ra việc này.

- Hừm! Tại sao lại không có một toán hộ tống giữa Paris và
Versailles? Sự trang tri là một phần của căn phòng, ông
Headingly ạ. Không ai bị lầm đâu, nhưng với căn phòng đó thì
phải có sự trang trí này. Này, anh thông ngôn, tại sao chúng ta
phải dẫn theo những anh lính kỳ cục đó?

Vai trò của người thông ngôn là làm vui lòng tất cả mọi người,
do đó anh ta thận trọng nhìn quanh mình trước khi trả lời; anh
muốn biết chắc rằng mấy người Anh không nghe thấy anh ta nói.


- Thưa ông, đúng là buồn cười đó! Nhưng ông muốn gì? Ðó là lệnh
chính thức của giới chức Ai Cập.

Ông người Pháp kêu lên.

- Các giới chức Ai Cập à? Ý anh muốn nói các giới chức Anh hả!
Lúc nào cũng là những người Anh đó!

Trong khi đó, các du khách đã chọn xong lừa, ngựa của họ, và
những chiếc bóng của họ ngồi trên lưng ngựa nổi bật trên nền
trời màu xanh xẫm. Belmont ngồi một cách ngay ngắn, vững vàng
trên một con lừa trắng bé nhỏ, vung vẩy cái mũ với bà vợ ông ấy
vừa đi ra trên boong con tàu Korosko. Cochrane giữ rất thẳng
người, với một cách ngồi nghiêm ngặt của nhà binh: hai bàn tay
thấp xuống, đầu ngẩng cao lên, hai gót chân chỉ xuống đất. Bên
cạnh ông, nhà ngoại giao trẻ, người đã được đào tạo ở Oxford,
đang quan sát phong cảnh với một cái nhìn nặng nề và cao ngạo,
như thể ông ta nghi ngờ sự đáng kính của sa mạc nói riêng và của
vũ trụ nói chung. Ở phía sau, các du khách khác tiến bước theo
hàng dọc, dọc theo bờ dốc, khi thì vất vả ít nhiều, khi thì
thoải mái đôi chút. Mỗi con lừa đều có một người dắt: những
thằng nhỏ vừa ồn ào, vừa chai lì. Trên boong tàu màu chì, chiếc
khăn mùi xoa của bà Belmont vẫn còn nhấp nhánh. Dòng sông nâu vẽ
ra những vòng lớn tới tận tám cây số đằng xa; những đồn canh
trắng, vuông ở trên những trái núi đen xì và lởm chởm chỉ rõ
miền ven của Ouadi-Halfa, nơi mà các du khách đã ra đi buổi
sáng.

Sadie kêu lên một cách vui thích:

- Không phải là kỳ diệu hả? Tôi có một con lừa chỉ thích phi
nước đại thôi, và các vị nhìn đây, cái yên của tôi mới sang
trọng làm sao! Các vị đã từng nhìn thấy cái gì tinh xảo hơn
những các hột kết thành chuỗi này và những thứ nhỏ nhặt khác
quấn quanh cổ nó không? Chắc ông phải làm một bản bị vong lục về
con lừa đó, ông Stephens ạ! Tôi sử dụng từ ngữ pháp lý có đúng
không đó?

Stephens quay lại phía khuôn mặt xinh đẹp, sinh động đang nhìn
ông dưới cái nón rơm đỏm dáng và ông rất muốn nói chính nàng mới
là kỳ diệu, nhưng ông rất sợ làm phật lòng nàng và làm tan vỡ sự
thân mật vui vẻ của họ nên thay vì tất cả những lời khen ngợi,
ông chỉ tặng nàng một nụ cười.

Ông nói:

- Cô có vẻ rất sung sướng!

- Xem kìa! Ai có thể không cảm thấy sung sướng với không khí khô
ráo và lành mạnh này, bầu trời xanh này, bãi cát vàng lạo xạo
này, và một con lừa tuyệt diệu để chở bạn đi? Tôi đã có đủ tất
cả mọi thứ cần có để làm cho tôi sung sướng!

- Tất cả mọi thứ?

- Tóm lại, tất cả mọi thứ tôi cần có trong lúc này.

- Tôi nghĩ là cô không biết thế nào là buồn bã phải không?

- À, khi tôi cảm thấy buồn khổ, tôi buồn khổ quá đi, không thể
nói sự buồn tủi nên lời! Trong bao nhiêu ngày, hết ngày này tới
ngày khác, tôi đã không ngừng khóc ở Smith College; các cô con
gái khác hỏi nhau tại sao tôi khóc và tại sao tôi không muốn nói
với họ lý do mà tôi phải khóc. Lý do thật sự là chính tôi cũng
không biết tại sao tôi khóc. Ông biết đó; đôi khi một bóng đen
lớn tới lơ lửng bên trên người ông, ông không biết một chút gì
về nó cả; nhưng ông chỉ còn có cách là tự xét lại mình và tự cảm
thấy buồn khổ thôi.

- Nhưng cô đã không bao giờ có một lý do thật sự để buồn rầu mà?


- Không, ông Stephens ạ. Suốt cả đời tôi, tôi đã có rất nhiều
thời kỳ tốt đẹp khiến cho khi tôi nhìn lại phía sau, tôi không
tin là tôi đã từng có một lý do thật sự để buồn phiền.

- Ðược rồi, cô Sadie này, tôi hết lòng hy vọng rằng cô vẫn sẽ có
thể nói điều này khi cô tới độ tuổi của bà cô của cô. Nhưng tôi
nghe thấy tiếng bà ấy gọi chúng ta!

"Ông Stephens này, tôi muốn ông trừng trị tên dắt lừa của tôi
bằng cái roi của ông nếu hắn còn đánh con vật khốn khổ của
tôi!", cô Adams nói lớn, vì cô đã vớ phải một con lừa cao lớn
chỉ có da bọc xương. "Nè, anh thông ngôn! nói với thằng ranh con
này là tôi sẽ không dung thứ việc nó hành hạ những con vật: nó
phải biết hổ thẹn chứ! Nó trưng ra với tôi những nụ cười như là
một tấm hình quảng cáo của thợ làm răng vậy. Ông Stephens, ông
có tin rằng nếu tôi đan một đôi bít tất len cho anh lính da đen
này, thì anh ấy sẽ được phép mang không? Tên quỷ khốn khổ này
chỉ có những băng vải quấn quanh chân!"

"Ðó là những cái xà cạp, cô Adams ạ" đại tá Cochrane quay lại
giải thích. "Ở Ấn Ðộ chúng tôi đã nhận thấy rằng không có thứ gì
tốt hơn để làm cho việc đi bộ được dễ dàng. Ðối với một người
lính thì những cái xà cạp đượ ưa thích hơn những bít tất len rất
nhiều".

- Vậy thì chúng ta không nói tới chuyện đó nữa! nhưng người ta
nói một con ngựa bị thương. Tôi thấy chúng ta rất oai vệ với
đoàn hộ tống có võ trang này. Nhưng ông Fardet khẳng định với
tôi rằng chúng ta không có gì phải lo sợ cả.

"Ít nhất đó là ý kiến riêng của tôi, thưa cô!" người đàn ông
Pháp vội vã đính chính. "Rất có thể là đại tá Cochrane lại có
một ý kiến khác biệt"

"Ý kiến của ông Fardet trái ngược với ý kiến của những sĩ quan
chịu trách nhiệm bảo đảm an ninh ngoài biên giới", vị đại tá
lạnh lùng trả lời. "Nhưng tôi nghĩ là tất cả chúng ta đều đồng ý
để thấy rằng sự hiện diện của những người lính này sẽ đóng góp
thêm vào sự tráng lệ của khung cảnh".

Bên phía tay phải của họ, sa mạc kéo dài những luống cát mềm mại
mấp mô của nó, trông giống như những cồn cát bao quanh một cái
biển cổ xưa đã bị quén lãng. Khi các du khách leo lên những cồn
cát này, từ trên cao họ nhìn thấy những chóp đỉnh đen xì của
những núi lửa kỳ quái đứng sững trên bờ sông về phía Libye.
Những người lính tiến lên bằng những bước mau lẹ, khẩu súng lăm
lăm trong tay, lúc thì những bóng của họ hiện lên trên các đỉnh
cao, lúc thì chúng mất dạng trong các hang hõm.

"Họ được tuyển mộ ở đâu vậy?" Sadie hỏi. "Họ có cùng một màu da
như những người gác thang máy ở Mỹ".

"Tôi đã nghĩ là cô sẽ đặt với tôi một câu hỏi về họ". Ông
Stephens nói, ông là người không bao giờ hài lòng hơn là khi
đoán trước được một ý nguyện của cô gái Mỹ xinh đẹp. "Sáng hôm
nay tôi đã thực hiện một vài sự sưu khảo trong thư viện của con
tàu. Ðây này... Ré.. Tôi muốn nói: Vấn đề những người lính da
đen. Theo những điều ghi chép của tôi, họ thuộc về tiểu đoàn
mười người Soudan trong quân đội Ai Cập. Họ được tuyển mộ trong
các bộ lạc da đen Dinkas và Shilluks sinh sống ở miền Nam của xứ
sở các thầy tu Hồi giáo, gần đường xích đạo".

"Làm cách nào mà các tân binh có thể đi qua xứ sở của những thầy
tu Hồi giáo?" Headingly hỏi.

"Tôi nghĩ họ đã không gặp quá nhiều khó khăn đâu". Ông Fardet
nói lẩm bẩm và nháy mắt với người đàn ông Mỹ.

- Những chiến binh lão luyện là những người sống sót của hai
tiểu đoàn già nua lính da đen. Một vài người đã phục vụ dưới
quyền của Gordon ở Khartoum và họ đã dành được một huy chương ở
đó, những người khác thì phần lớn là các đào binh của đạo quân ở
Mahdi.

Cô Adams nói:

- Thú thật là khi mà chúng ta không cần tới sự phục vụ của họ
thì trông họ cũng khá dễ thương trong bộ đồng phục xanh dương
này. Nhưng khi gặp sự bực bội, tôi tưởng rằng ta nên cầu chúc
cho họ đỡ phần trang trí đi và trắng hơn lên một chút!"

"Tôi không tin chắc ở điều đó, thưa cô", ông đại tá trả lời.
"Tôi đã nhìn thấy những người này trên trận địa; người ta có thể
tin ở sự dũng cảm của họ trong khói lửa"

"Nhưng này, tôi thích tin ở ông qua lời nói chứ không phải qua
việc thực hiện một kinh nghiệm!" cô Adams tuyên bố với một giọng
làm mọi người mỉm cười.

Con đường chảy dài theo bờ sông Nil, nước sông bị xao động bởi
những xoáy nước dưới sâu, chảy theo sức mạnh của những thác nước
ở thượng nguồn. Có chỗ đà chảy của dòng nước bị vỡ tung vì một
tảng đá đen xì óng ánh ướt sũng những bọt nước. Ở trên cao hơn,
các du khách nhìn thấy rõ ràng sự lấp lánh như bạc của những cái
thác nước, những bờ sông đã bắt đầu hóa thành những bờ dốc thẳng
đứng. Chẳng bao lâu một núi đá hình bán nguyệt hiện ra sừng
sững. Người thông ngôn đã không cần phải nói rõ đó là ngôi đền
có tên trong chương trình du ngoạn của họ. Một con đường bằng
phẳng dẫn tới ngôi đền. Những con lừa đi vào con đường với nước
kiệu nhỏ, ở giữa những tảng đá đen trên nền màu cam, những khúc
cột chỉ thẳng lên trời, cũng như một quãng tường thành còn sót
lại có mang những dòng chữ, cứ theo màu da xám xịt của nó và sự
vững chãi của nó thì hình như nó đã được tạo ra bởi tạo hóa chứ
không phải bởi con người. Chàng thông ngôn Mansoor đã xuống ngựa
và đợi cho những người đi chậm bắt kịp anh ta.

"Thưa quí ông và quí bà ngôi đền này", anh nói lớn với điệu bộ
một nhân viên đấu giá đang chuẩn bị lần rao giá cuối cùng, "là
một kiểu mẫu mỹ thuật rất đẹp dưới triều đại thứ mười tám. Ðây
là khuôn ảnh của Hoàng đế Thotmes Ðệ Tam!" anh lấy cán roi ngựa
chỉ vào những chữ tượng hình khắc sâu trong vách đá. "Ngài đã
sống sáu trăm năm trước chúa cơ đốc, và tấm bia ký này là để kỷ
niệm chuyến du ngoạn đắc thắng của ngài ở Mesopotamie. Trên
những hình chạm nổi kia chúng ta có lịch sử của ngài, từ thuở
ngài sống với mẹ cho tới khi ngài hồi cung với những tù nhân bị
cột vào xe của ngài. Chỗ này quí vị trông thấy ngài được tấn
phong bởi Ai Cập Hạ, và chỗ kia bởi Ai Cập Thượng, nước đã dâng
một thánh lễ lên thần Ammon-Ra, để tôn vinh chiến thắng của
ngài. Chỗ này những tù nhân đứng trước mặt ngài, và mỗi tên đều
bị ngài cắt mất bàn tay phải. Trong góc kia, quí vị nhìn thấy
một đống nhỏ, chỉ nguyên những bàn tay phải.

"Lạy chúa tôi, chắc tôi không muốn có mặt ở nơi này vào thời
gian đó!" cô Adams nói.

"Này, không có gì thay đổi cả!" Cecil Brown đưa ra nhận xét.
"Ðông phương bao giờ cũng là Ðông phương. Tôi không nghi ngờ
chút nào rằng, cách chỗ mà hiện giờ cô đang đứng chừng một trăm
năm mươi cây số hoặc có thể là ít hơn thế nữa... "

"Ông hãy im đi!" ông đại tá nói nhỏ.

Các du khách đi dọc theo bức tường thành trong khi ngẩng đầu lên
và hất những cái mũ lớn của họ ra phía sau. Ðằng sau họ mặt trời
đổ vào bức tường cổ xưa này một ánh sáng màu đồng và chiếu lên
các tảng đá những cái bóng đen của các du khách lẫn lộn với
những chiến binh da đen. Cái bóng đồ sộ của cha John Stuart ở
Birmingham trong một lúc bao trùm cả ông vua ngoại đạo và vị
thượng đế mà ông tôn thờ.

"Cái gì đây?" ông hỏi với giọng sắc nhọn trong khi giơ thẳng cái
ba tôn màu vàng ở Assouan lên.

"Một con trâu nước" anh thông ngôn trả lời.

Và tất cả các du khách cố nén một tiếng cười nhỏ vì con vật này
có một nét nào đó của ông Stuart.

"Nhưng nó không lớn hơn một con heo con!" ông phản đối. "Hãy
nhìn kìa, ông vua xiên nó trên ngọn giáo một cách dễ dàng".

"Nó đã được vẽ rất nhỏ, để chứng tỏ rằng so sánh với nhà vua nó
chỉ là một vật bé nhỏ" anh thông ngôn giải thích. "cũng như quí
vị có thể trông thấy các tù nhân chỉ đứng tới đầu gối nhà vua;
đó không phải vì ông ấy có một thân hình đồ sộ mà vì ông ấy có
rất nhiều quyền lực hơn họ. Xin hãy nhìn nữa đây, ông ấy to hơn
con ngựa của ông ấy vì ông ấy là vua và một con ngựa chỉ là một
con ngựa. Một thí dụ nữa: những người đàn bà bé bỏng mà quí vị
nhận ra ở chỗ này hay chỗ khác đều là những người vợ tầm thường
của ông ấy!"

"Thật đẹp mặt!" Cô Adams la lên với sự giận dữ. "Nếu người ta
khắc được linh hồn của vị vua này, thì hẳn ta phải có một cái
kính hiển vi để xem cái linh hồn đó. Liệu ta có thể chấp nhận
được rằng ông ấy đã cho phép các bà vợ ông ấy được trưng bày ra
theo cái cách thật lố bịch này không?"

"Nếu ông ấy sống vào thời đại chúng ta" ông người Pháp nói. "thì
trong lĩnh vực này ông ấy sẽ vấp phải nhiều khó khăn hơn là ông
ấy đã từng gặp phải ở Mésopotamie. Nhưng thời gian sẽ đem lại
những sự phục hận. Có thể là rồi đây chúng ta sẽ nhìn thấy hình
ảnh một người đàn bà cường tráng và người chồng bé nhỏ tầm
thường của bà ta, phải không?"

Cecil Brown và Headingly đứng ở phía sau, vì những lời bình luân
điên đảo thị phi của anh thông ngôn và những câu nói dông dài vô
bổ của các du khách đã làm ngột ngạt cảm giác về sự trang nghiêm
của họ. Họ lặng lẽ đứng nhìn cái đám rước kỳ quái của những
chiếc mũ che nắng và những chiếc khăn trùm đầu màu xanh này diễu
hành trước bức tường thành xám xì cổ lỗ. Bên trên đầu họ hai con
chim sẻ quạt vừa bay chập chững vừa gọi nhau ở giữa những cây
cột trụ đổ nát hoang tàn.

"Ðó có phải là một sự báng bổ không?" cuối cùng người đàn ông
xuất thân từ Oxford lẩm bẩm nói.

"Này, tôi hài lòng với cảm tưởng của ông! Nó tương hợp với ý của
tôi" Headingly trả lời. "Tôi không biết rõ người ta phải tiếp
cận loạt sự vật này như thế nào, một khi ta chấp nhận rằng họ
phải tiếp cận chúng, nhưng chắc chắn đây không phải là cách
đúng. Tóm lại tôi ưa thích những cảnh hoang phế mà tôi chưa nhìn
thấy hơn là những cảnh mà tôi đã thấy... ".

Nhà ngoại giao trẻ ném cho ông ta một cái nhìn đầy nhiệt tình,
mỉm cười, nhưng rồi ông lấy lại ngay bộ mặt của con người đã quá
chai lì.

"... Tôi có một tấm bản đồ" ông người Mỹ nói tiếp, "Ðôi khi ở
rất xa mọi sinh vật, ở tận giữa bãi sa mạc, không có nước, không
có đường mòn, tôi đọc thấy "phế tích" hay "di tích một đền đài".
Ngôi đền của Jupiter Ammon chẳng hạn, một trong những đền đài
danh tiếng nhất trên thế giới lại ở cách xa hàng trăm cây số với
bất cứ một vật nào. Ðó là những phế tích hẻo lánh bị che dấu,
tồn tại qua nhiều thế kỷ, làm kích động trí tưởng tượng của con
người. Nhưng khi tôi xuất trình một tấm vé ở ngoài cửa và khi
tôi đi vào như tôi đã đi vào trong gánh xiếc Barnum, thì tất cả
vẻ thơ mộng, tất cả sự vi diện đều tan biến".

"Hoàn toàn đúng! " Cecil Brown trả lời trong khi nhìn ra sa mạc
bằng một con mắt ảm đạm và khắt khe. "Nếu người ta có thể đi
chơi ở đây một mình thôi, do sự tình cờ mà đi tới, và trong sự
hiu quạnh hoàn toàn đứng trước những bức phù điêu kỳ quặc này
thì thật là không thể cưỡng được. Có lẽ người ta sẽ muốn quỳ lạy
trong sự kinh hãi và cảm mến. Nhưng khi Belmont rít cái ống vổ
kếch xù của ông ấy, khi Stuart bắt người ta phải nghe cái giọng
khò khè hen suyễn của ông ấy, khi cô Sadie Adams phá lên
cười...".

" Và khi con chim cà cưỡng thông ngôn này đọc bài của anh ấy!"
Headingly thở dài. "Tôi chỉ có một mong muốn, ngồi im lặng và
suy ngẫm, tôi đã không bao giờ thỏa mãn được sự mong muốn đó. Ðã
có lúc tôi gần phạm phải tội sát nhân khi tôi đang đứng trước
Kim Tự Tháp lớn và tôi đã không có thể hưởng được một khoảnh
khắc yên tĩnh, vì người ta đã làm tôi điên đầu lên với những lời
rao hàng. Tôi đã nện cho gã bán hàng một cái đá, cái đá này suýt
nữa đã giết chết hắn ta trên mũi giày! Khi tôi nghĩ rằng tôi đã
thực hiện một chuyến đi từ Mỹ Châu để xem Kim Tự Tháp, và một
khi đứng trước nó, tôi đã chẳng thấy gì tốt đẹp hơn là việc tặng
cho anh chàng người Ả Rập một cái đá!"

Người cựu sinh viên Oxford cười một cách dịu dàng. Ông nói:

- Họ lại lên đường kìa!

Rồi họ thúc những con lừa của họ đi về phía trước để đi vào phía
sau đám rước buồn cười này, bây giờ thì đám rước đi vào giữa
những núi đá lớn, giữa những ngọn đồi lởm chởm đá. Một con đường
nhỏ hẹp và ngoằn ngoèo len lỏi giữa những tảng đá. Phía sau các
du khách chân trời bị che khuất bởi những ngọn đồi khác trông
đen ngòm và kỳ quái như những đống bã quặng ở một cái giếng khai
mỏ. Sự yên lặng ngự trị trong toán người. Nét mặt thường ngày
vui vẻ của Sadie sa sầm lại như để suy ngẫm về sự phũ phàng của
tạo hóa. Ðoàn hộ tống xích lại gần nhau, tiến bước theo hàng
một. Ông đại tá và Belmont vẫn phi ngựa đi tiên phong.

"Ông Belmont, ông có biết không?" ông đại tá hạ thấp giọng nói.
"Có lẽ ông sẽ cho tôi là ngu ngốc, nhưng tôi không thích cái
chuyến du ngoạn nhỏ nhặt này".

Belmont phát ra một tiếng cười gằn nhỏ.

"Từ trong phòng của tàu Korosko nhìn ra thì mọi thứ đều có vẻ
hoàn hảo. Bây giờ khi chúng ta ở đây chúng ta cảm thấy một cách
mơ hồ một cái gì đó trong không khí", ông ta nói. "Tuy nhiên
tuần lễ nào các du khách cũng tới đây, và chưa từng bao giờ xảy
ra một sự cố nhỏ nhặt nào".

"Tôi tự ý chấp nhận các sự rủi ro khi tôi đi trên con đường của
chiến tranh", ông đại tá trả lời. "Chiến tranh rất thành thật,
người ta biết rằng với nó thì người ta phải chạm trán với cái
gì. Nhưng khi ta dẫn theo các phụ nữ, và khi ta được ban tặng
một toán hộ tống tồl tệ như toán này, thì đúng là chơi đùa với
lửa! Tất nhiên là có chín mươi chín phần trăm vận may là mọi
việc sẽ suông sẻ, nhưng nếu điều trái ngược xảy ra... Tốt nhất
là đừng nghĩ tới chuyện đó! Ðiều đáng khen là họ hoàn toàn không
biết rằng xứ sở này rất nguy hiểm".

"Tôi à, tôi rất thích những cái áo dài của người Anh để đi bộ
đường dài, ông Stephens ạ!" Sadie cất tiếng nói đằng sau họ.
"nhưng với một cái áo dài để mặc buổi chiều thì tôi tin rằng các
thợ may người Pháp có nhiều kiểu cách hơn là các đồng nghiệp
người Anh của họ. Những người tạo mẫu thời trang của các ông có
những sở thích nghiêm ngặt, và họ ít biết khai thác những dây
băng và những cái nơ".

Ông đại tá mỉm cười.

"Dù sao thì cô ấy cũng có một tâm hồn trong sáng!" ông nói với
Belmont. "Tôi sẽ không nhắc lại với ai điều mà tôi vừa nói với
ông, và tôi hy vọng rằng những nỗi lo sợ của tôi sẽ tự phơi bày
ra là không có cơ sở vững chắc".

Belmont trả lời:

- Xin ông hiểu cho là tôi cũng tưởng tượng rằng những băng đảng
thầy tu Hồi giáo đang đi trộm cướp kiếm mồi nhưng sẽ không thể
có chuyện là chúng đợi đúng cái ngày mà chúng ta đi qua nơi này.


- Biết rằng một cuộc quảng cáo rầm rộ đã được tung ra về các sự
di chuyển của chúng ta và rằng mọi người đều biết trước một tuần
các cuộc du ngoạn được xếp đặt cho chương trình của chúng ta,
thì sự trùng hợp sẽ không có gì là kỳ lạ!

"Sự rủi ro một phần trăm, ông đã nói mà!" Belmont lẩm bẩm nói,
trong thâm tâm ông thấy vui thích khi biết rằng bà vợ ông được
an toàn trên con tàu.

Chả mấy lúc họ ra khỏi vùng ngổn ngang sỏi đá, chỗ làm cản trở
bước đi của những con lừa, bây giờ thì bãi cát vàng, mịn trải
dài ra cho tới chân quả đồi hình chóp đứng sững trước mặt họ.
"Ây-a! Ây-a!" những người dắt lừa vừa quát vừa lấy roi đánh vào
mông các con vật, những con vật này chạy nước đại và lao mình
vào trong cánh đồng. Chúng chỉ dừng lại ở dưới chân con đường
nhỏ leo lên núi, theo lệnh của anh thông ngôn.

- Thưa quí bà và quí ông, bây giờ chúng ta đã tới chân ngọn núi
Abousir lừng danh. Ðứng trên đỉnh núi này, quí vị sẽ phát hiện
ra một toàn cảnh rất đa dạng, nhưng trước hết quí vị sẽ nhận
thấy trên vách đá các bậc vĩ nhân đã khắc tên của họ vào đá,
những vị này đã đi qua đây trong các cuộc hành trình của họ, có
khi còn trước cả lúc Chúa Ki Tô giáng sinh.

"Ông có Moise không?" Cô Adams hỏi:

"Cô ơi, cô làm cháu kinh ngạc đó!" Sadie kêu lên.

- Tại sao, hở cháu cưng? Ngài ở nước Ai Cập, đó là một bậc vĩ
nhân, rất có thể là ngài đã du ngoạn ở nơi này.

"Rất có thể là tên của Moise có ở đó, cũng như tên của
Hérodote", anh thông ngôn tuyên bố một cách nghiêm trọng, "nhưng
cả hai đều đã phải gánh chịu sự phũ phàng của thời gian, ngược
lại ở đằng kia, trên tảng đá màu nâu, quí vị sẽ đọc thấy tên của
Belzoni. Trên cao hơn là tên của Gordon. Không có một nhân vật
nổi tiếng nào ở Soudom mà quí vị không thể tìm thấy tên nếu quí
vị chịu khó tìm một chút. Và bây giờ, với sự cho phép của quí vị
chúng ta sẽ để những con lừa ở đó để đi bộ leo lên bằng con
đường này, từ trên đỉnh núi quí vị sẽ nhìn thấy con sông và sa
mạc...".

Sau hai hay ba phút leo trèo các du khách đã tới chỗ bằng phẳng
hình bán nguyệt nằm trên ngọn núi. Phía dưới chân họ, ở một bên,
một ghềnh đá đen xì đứng thẳng, cao tới năm chục mét, cắm sâu
xuống những xoáy nước sủi bọt của sông Nil. Tiếng ầm ì inh tai
của con sông và tiếng rít lên của nước sông chảy ồ ạt giữa các
tảng núi đá vang lên một cách quái dị trong không khí oi nóng và
im lìm. Ðằng xa ở thượng nguồn hay hạ nguồn, họ trông thấy dòng
sông rộng tới bốn trăm mét, mạnh mẽ, sâu thẳm và gần như đen
kịt. Ở mạn bên kia, trải ra một khoảng bao la hoang vu, đó đây
rải rác những tảng đá đen xì, vốn là những thứ đá vụn do sông
Nil mang tới khi nó chảy tràn khỏi lòng sông. Không một nơi nào
có vết tích của đời sống con người.

"Ở đằng kia", người thông ngôn chỉ về hướng Ðông "là con đường
quân sự đi từ Ouadi-Halfa tới Sarras. Sarras ở về phía Nam, dưới
cái núi đen này. Hai quả núi xanh mà quí vị trông thấy ở chân
trời đều nằm trong sứ Dongola, cách Sarras hơn một trăm cây số.
Con đường xe lửa dài sáu mươi lăm cây số, nhưng nó đã chịu thiệt
hại nhiều vì bọn thầy tu Hồi giáo, bọn này rất thích chế biến
các đường rầy thành những ngọn giáo. Chúng cũng rất thích những
sợi dây của máy điện báo. Bây giờ nếu quí vị muốn quay trở về,
tôi sẽ giải thích với quí vị những gì quí vị sẽ có thể nhìn thấy
ở mạn bên kia...".

Ðó là một toàn cảnh mà ta không thể quên được sau khi đã nhìn
thấy một lần. Cái dải sa mạc hoang dã và liên tu bất tận này có
phải là thuộc về một hành tinh đã tiêu mòn và nguội lạnh hay
thuộc về trái đất khoan dung của chúng ta? Nó kéo dài cho tới
một đám sương mù nhẹ màu tím có vẻ như là chỗ tận cùng của thế
giới. Ở lớp thứ nhất, cát có một màu vàng đẹp rực rỡ mà nắng làm
thành chói lòa. Sáu người lính trung thành da đen dừng lại ở
phía dưới, họ im lìm bất động tựa vào những khẩu súng của họ,
mỗi người chiếu ra một cái bóng có vẻ cũng chắc nịch như chính
con người của họ vậy. Ở bên ngoài cái cánh đồng vàng hoe này
những đống cặn kim loại đen xì xếp thành từng hàng, được phân
cách nhau bởi những thung lũng cát thổ hoàng. Những đống cặn kim
loại này bị che lấp bởi những quả đồi cao hơn và có hình dạng kỳ
quái hơn, những quả đồi này xếp thành tầng và kề sát nhau cho
tới lúc tan biến vào trong màn sương mù xa xôi, tím ngắt. Trong
những quả đồi này, không quả nào có được một độ cao đáng kể; quả
cao nhất có thể được một trăm năm mươi hay hai trăm mét; nhưng
các chóp đỉnh hình răng cưa của chúng, những vách dựng đứng bằng
đá đã bị nắng nung chín đã cho chúng một vẻ tàn bạo, khủng
khiếp.

"...Bãi sa mạc của nước Libye" anh thông ngôn loan báo trong lúc
giơ tay lên một cách kiêu hãnh. "Một sa mạc lớn nhất thế giới.
Giả dụ quí vị đi từ chỗ này về hướng Tây, và quí vị không rẽ
ngang về hướng Bắc hay về hướng Nam, thì những cái nhà đầu tiên
mà quí vị nhìn thấy sẽ là những căn nhà ở nước Mỹ. Thưa cô
Adams, tôi nghĩ rằng sự giả thiết này làm cho cô nhớ nhà phải
không?".

Nhưng cô gái già người Mỹ đã không nghe anh nói nữa. Sadie đã
nắm lấy cánh tay cô và với bàn tay kia nàng chỉ cho cô một vật
gì trong bãi sa mạc.

"Ồ, đây là mức tột độ của sự mỹ lệ!", cô kêu lên, mặt đỏ bừng vì
bị khích động. "Ông Stephens, hãy nhìn kìa! Chỉ còn thiếu một
vật nữa là quang cảnh được hoàn hảo! Hãy nhìn những người ngồi
trên lưng lạc đà đang nhô ra từ các ngọn đồi!".

Lúc đó tất cả bọn họ đều trông thấy một hàng dài những kỵ binh
quấn khăn đỏ đang thúc những con lạc đà ra khỏi một khe núi. Một
sự im lặng chụp xuống, im lặng quá đến nỗi họ có thể nghe rõ
được tiếng vo ve của những con ruồi. Ðại tá Cochrane vừa bật một
que diêm, rồi ông đứng im bất động không nghĩ tới việc châm lửa
vào điếu thuốc lá, và ngọn lửa làm bỏng các ngón tay ông,
Belmont huýt sáo qua các khe răng. Anh thông ngôn đứng há hốc
mồm ra, cặp môi béo mọng và đỏ thắm của anh ta, trở nên xám
ngoẹt. Những người khác nhìn nhau, khó chịu trước màn phụ diễn
bất ngờ của chương trình. Ông đại tá phá tan sự im lặng.

Ông nói:

- Ông Belmont này, nhờ ơn trên phù hộ, tôi nghĩ rằng đây là một
phần trăm sự rủi ro đã xuất hiện đó!

Hãy cảm ơn bài viết của donka bằng cách bấm vào "" ở bên dưới nhé!!!

Về Đầu Trang Go down

https://dlthanh.forumvi.com

donka
donka

//dondonitt

Tổng số bài gửi : 143
Points : 425
Reputation : 25
Join date : 06/06/2011

Bài gửiTiêu đề: Re: Tấn Thảm Kịch Của Tàu korosko Tấn Thảm Kịch Của Tàu korosko Icon_minitimeThu Jun 09, 2011 10:57 am

Chương 4:

"Mansoor, thế này là nghĩa làm sao?" Belmont kêu lớn với một
giọng thô lỗ, "những người đó là ai, và tại sao anh đứng hai mắt
trợn trừng như thể anh đã hóa thành pho tượng bằng muối vậy?"


Anh thông ngôn, trước khi trả lời, thè lưỡi liếm vào cặp môi khô
khan của anh ta . Anh ta nói ấp úng: "Tôi không biết họ là ai".


"Họ là ai?" ông người Pháp quát lớn. "Anh chỉ cần nhìn cho rõ.
Đó là những người có võ trang cưỡi lạc đà: những người Bédouins
như là những người mà chính quyền trên biên giới thường thuê
mướn".

"Xin ơn trên phù hộ, có lẽ ông ấy nói đúng, Cochrane ạ!" Belmont
quay lại phía viên đại tá và nói: " Tại sao những người kia lại
không phải là những bằng hữu?"

"Chúng ta không có bằng hữu trên bờ bên này của sông Nil", ông
đại tá trả lời với một giọng quả quyết. "Tôi hoàn toàn biết chắc
về việc đó. Chúng ta sẽ sai lầm khi tự lừa dối mình. Chúng ta
phải chuẩn bị cho điều tệ hại nhất".

Bất kể những lời nói này, các du khách vẫn im lìm bất động, đứng
sát vào nhau và nhìn xuống cánh đồng. Sự kinh động bất ngờ này
đã làm họ điếng người, họ đang sống trong một giấc mộng không có
bản ngã của họ, mơ hồ và phi thực tại. Những kỵ binh đã đi ra từ
một khe núi ở cách con đường họ vừa đi qua chừng một ngàn năm
trăm mét, như thế là chúng đã cắt hết đường rút lui của họ. Theo
như đám bụi bốc lên và chiều dài của đám người thì người ta có
thể nói là cả một đoàn quân đang xuất hiện từ những quả đồi.
Thật tình thì bảy mươi người cưỡi trên lưng lạc đà cũng che phủ
được một mảng đất lớn.

Sau khi chúng đã tới cánh đồng cát, chúng xếp thành hàng và sau
một hồi kèn chát chúa chúng xông lên theo hàng ngang, những cái
bóng sặc sỡ nhiều màu của chúng chao đảo trên những cái yên của
chúng; cát bốc tung lên thành một đám mây vàng lăn theo dưới
chân những con lạc đà. Vừa nhìn thấy những sự việc này, sáu anh
lính da đen đã lùi lại và ẩn mình trên sườn đồi đằng sau những
tảng đá, như những binh sĩ đã thành thạo trong việc tập luyện,
những hộp cơ bẩrn kêu lách cách cùng một lúc khi viên hạ sĩ ra
lịnh cho họ nạp đạn vào súng.

Sự hoảng hốt đầu tiên của các du khách lúc đó đã nhường chỗ cho
sự thi triển lớn lao về nghị lực, vừa cuồng nhiệt, vừa bất lực.
Tất cả bọn họ đều bắt đầu chạy trên khoảng đất bằng trong sự vội
vã không có mục đích, trông họ giống như một đàn gà vịt bị hoảng
sợ trong sân chuồng. Họ đã không có thể quyết định nhìn nhận là
họ không còn một phương cách nào để thoát hiểm cả. Đã nhiều lần
họ cúi xuống bên trên cái mép của ghềnh đá lớn đâm sâu xuống
sông Nil, nhưng người trẻ nhất và người táo bạo nhất trong nhóm
họ cũng không bao giờ có thể tụt xuống chiều cao của cái vách đá
nhẵn thín này. Hai người đàn bà níu chặt lấy tay của Mansoor
trong lúc anh này run lẩy bẩy, như thể các cô cho là anh ta phải
chính thức chịu trách nhiệm về sự an toàn của mọi người.
Stephens, người đại diện cho thân chủ trước tòa án, không rời
khỏi Sadle Adams và nói thầm thì như một cái máy hát: "Đừng sợ
cô Sadle ạ! Đừng sợ!" việc này cũng không ngăn cản được ngay
chính ông ta đang run rẩy cả chân tay. Ông Fardet dậm chân, láy
đi láy lại những chữ "r" khi lúng búng nói những câu không ai
hiểu được và ném những cái nhìn bực bội vào các bạn đồng hành,
ông thấy mình đã bị họ phản bội một phần nào đó. Ông mục sư to
lớn đứng rất ngay ngắn dưới cái dù của ông và cặp mắt to, hoảng
sợ của ông đang quan sát sự di chuyển của những gã kỵ binh.
Cecil Brown đang xoắn bộ ria ngắn của ông; ông tái người đi
nhưng vẫn có vẻ khinh khỉnh. Ông đại tá, Belmont và nhà khoa
bảng trẻ tuổi của Harward vận giữ được sự điềm tĩnh; họ là những
người có nhiều thủ đoạn.

"Tốt nhất là chúng ta cùng đứng lại với nhau", ông đại tá nói,
"không còn cách nào để tránh khỏi bọn chúng, do đó tốt nhất là
chúng ta đừng rời xa nhau".

"Chúng đứng lại" Belmont loan báo.

"Vì chúng quan sát chúng ta, chúng bịết chắc rằng chúng ta nằm
trong quyền sinh sát của chúng; do đó chúng không vội vã. Tôi
không nhìn thấy điều gì mà chúng ta sẽ có thể làm được".

"Nếu chúng ta dấu các phụ nữ đi có được không?" Headingly đề
nghị. "Chắc chắn là chúng không biết chúng ta có bao nhiêu
người. Khi chúng đã bắt được chúng ta rồi, các phụ nữ sẽ có thể
ra khỏi nơi ẩn nấp và trở lại tàu thủy".

"Tuyệt diệu!" ông đại tá kêu lên. "Cô Adams, xin cô vui lòng lại
đây. Mansoor, hãy mời các bà tới chỗ này! Không còn một giây
phút nào để bỏ mất nữa".

Một phần của khoảng đất bằng không thể nhìn thấy được từ bên
dưới, những người đàn ông cuống cuồng dựng lên một chỗ trú ẩn
nhỏ bằng những tảng đá, những tảng đá thì không thiếu; không cần
phải lâu la gì để dựng nghiêng một tảng đá lớn nhất vào một núi
đá; và theo lối đó làm thành một thứ mái che, rồi lấp kín hai
bên bằng hai tảng đả khác cùng một màu với núi đá; thoạt mới
nhìn chỗ ẩn nấp không quá lộ liễu đâu. Hai người đàn bà chui vào
chỗ ẩn nấp và ngồi xuống. Sadie ôm choàng lấy bà cô trong hai
cánh tay. Khi đã dựng xong chỗ trú ẩn, những nguời đàn ông đi ra
nhìn những việc đang diễn ra trong cánh đồng với một tấm lòng
nhẹ nhõm hơn. Lúc tới gần rìa của khoảng đất bằng, họ nghe thấy
những phát súng đầu tiên; đó là toán hộ tống của họ bắn; nhưng
những phát súng rời rạc đó đã mau chóng bị nhận chìm trong một
tiếng ầm ì inh tai, và không khí tràn đầy tiếng rít của những
viên đạn. Tất cả các du khách đều nằm nép xuống sau các tảng đá,
ngoại trừ anh chàng người Pháp thì cứ tiếp tục dậm chân và lấy
tay đấm mạnh vào cái mũ rơm của mình. Belmont và Cochrane bò
xuống nơi mà những người lính Soudan đang bắn một cách bình tĩnh
và theo đúng phương pháp, với những khẩu súng kê trên các tảng
đá.

Bọn nghười Ả - Rập dừng lại ở khoảng năm trăm mét, sự ung dung
trong các cử động của chúng chứng tỏ rằng chúng đã biết rõ tình
thế tuyệt vọng của các du khách. Chúng chỉ dừng lại để đếm số du
khách trước khi xông lên tấn công, một phần lớn bọn chúng ngồi
trên mông lạc đà mà bắn, nhưng một vài tên đã tụt xuống đất và
quì xuống. Những vết trắng nhỏ, lung linh của chúng hiện rõ ràng
trên những sắc vàng của hậu cảnh. Lúc thì chúng bắn lẻ tẻ, lúc
thì chúng bắn hàng loạt. Quả đồi kêu gầm gừ như một bọng ong;
những viên đạn văng vào núi đá với một tiếng khô khan.

“Ông đứng phơi mình ra như vậy chẳng có ích lợi gì đâu", Belmont
nói.

Ông kéo ông đại tá vào phía sau một tảng đá lớn, gồ ghề, nơi đã
có ba người lính Soudan ẩn núp.

"Một viên đạn là điều mà chúng ta có thể hy vọng là tốt nhất",
Cochrane trả lời với một nụ cười ảm đạm. "Belmont ạ, tôi thật là
ngu ngốc quá chừng khi không phản đối một cách cương quyết hơn
cuộc du ngoạn kỳ cục này! Tôi hoàn toàn xứng đáng với những gì
xảy ra

với tôi, nhưng khi tôi nghĩ tới những người bất hạnh kia, họ
không nghi ngờ tới một chút hiểm nguy nào..."

- Tôi giả thiết rằng chúng ta không thể hy vọng có sự giải cứu?


- Không có một chút nào.

- Ông có nghĩ rằng những tràng súng này có thể gợi ý cho những
toán quân ở Ouadl-Halfa tới đây không?

- Ờ, nếu chúng ta không trở về, tàu thủy sẽ báo động!

- Và trong thời gian đó chúng ta sẽ ở đâu?

"Norah khốn khổ của tôi! Em bé Norah khốn khổ!" Belmont nói lẩm
bẩm đằng sau bộ ria mép lốm đốm bạc của ông.

Sau một lúc yên lặng, ông hỏi:

- Ông Cochrane này, theo ý ông thì chúng sẽ làm gì với bọn ta?


- Chúng sẽ cắt cổ họng chúng ta, hoặc đưa chúng ta tới Khartoun
để làm nô lệ. Tôi không biết trong hai cách đó thì cách nào dễ
chịu hơn. Kìa dù sao thì một người trong bọn chúng ta cũng đã rũ
sạch hết phiền muộn rồi !

Anh lính đang bắn bên cạnh họ vừa ngã ngồi phệt xuống, đầu anh
ta gục xuống giữa hai đầu gối. Anh ta vừa bị một viên đạn bắn
trúng giữa đầu. Anh ấy không động đậy nữa. Anh ấy không thốt ra
một tiếng rên rỉ nào. Các bạn của anh cúi xuống bên trên xác của
anh, rồi họ nhún vai và lại quay đầu về phía những tên Ả Rập.
Belmont lượm lấy khẩu súng của người chết cũng như cái bao đạn
của anh.

"Hơn ba bì đạn. Cochrane ạ!" ông nói và để ba khúc đồng nhỏ lên
lòng bàn tay. "Chúng ta đã để cho họ bắn quá sớm và bắn nhiều
quá. Lẽ ra chúng ta phải đợi cho bọn thầy tu xông lên tấn công
đã".

"Ông đã nổi tiếng là xạ thủ thuợng thặng đó, Belmont ạ !" ông
đại tá lẩm bẩm nói. "Ông không tin là ông sẽ có thể bắn hạ được
tên chỉ huy của bọn chúng à?"

- Tên đó là thằng nào ?

- Tôi nghĩ nó là tên đang ngồi trên con lạc đà trắng ở bên phải.
Tên đó đang nhìn về phía chúng ta, lấy hai bàn tay che lên mắt.


Belmont nạp đạn vào súng và điều chỉnh thước ngắm. Ông nói:

- Ánh sáng xấu quá khó mà ước định khoảng cách. Được, tôi sẽ thử
ở khoảng năm trăm mét!...

Ông bắn, nhưng không có gì nhúc nhích cả, cả con lạc đà trắng,
cả người ngồi trên lưng nó.

-... ông có trông thấy cát bay lên không ?

- Không, tôi không trông thấy gì cả.

- Tôi chắc rằng tôi đã bắn quá xa.

- Hãy thử lại một lần nữa đi.

Belmont ngắm với một sự tin chắc hoàn toàn, nhưng con lạc đà và
tên chỉ huy vẫn không động đậy. Phát thứ ba chắc đã đi qua gần
hơn, vì con vật nhích nhiều bước về bên phải như kiểu nó muốn di
chuyển. Belmont ném khẩu súng hết đạn xuống trong khi thốt ra
một tràng than chán nản.

"Đúng là tự cái ánh sáng chết tiệt này ! " ông nói lớn, mặt đỏ
bừng vì bực bội. "Cứ cho rằng tôi đã bắn uổng ba bì đạn! Ở
Bisley thì chắc tôi đã bắn rơi cái khăn của nó rồi, nhưng sự
phản quang chết tiệt này... Điều gì đã xảy ra với anh chàng
người Pháp?".

Ông Fardet dậm chân trên bãi cát với bộ điệu một người vừa bị
ong vò vẽ đốt

"Đồ chết toi!", ông gào lên. "Đồ chết toi!".

Những cái răng trắng ởn của ông lóng lánh dưới bộ ria mép đen.
Ông vặn xoắn một cách dữ dội bàn tay phải của ông và máu chảy
dọc theo các ngón tay của ông. Một viên đạn đã làm sượt cổ tay
ông. Headingly phóng mình ra khỏi nơi trú ấn mà ông đã nấp, chắc
chắn là ông có ý định bắt buộc anh chàng người Pháp nằm xuống
mặt đất, nhưng ông chưa đi được ba bước thì một viên đạn đã bắn
vào lưng ông, ông ngã gục xuống giữa những hòn đá. Ông muốn đứng
dậy, ông lảo đảo, rồi lại ngã xuống cùng một chỗ đó. Ông vùng
vẫy tứ chi như một con ngựa bị gãy lưng vậy.

"Chúng bắn trúng rồi!" ông ấp úng nói.

Ông đại tá chạy tới cứu ông, nhưng Headingly không động đậy nữa,
đôi má trắng bệch của ông tì lên những hòn đá đen xì. Một năm
trước đây, khi ông đi dạo chơi dưới những cây du của trường
Cambridge, không bao giờ ông nghĩ rằng cuộc đời trần thế của ông
sẽ bị chặt đứt trong sa mạc Libye bởi viên đạn của một tên hồi
giáo cuồng tín.

Tiếng súng của toán hộ tống đã ngưng, những người lính đã hết
đạn. Một người lính thứ hai đã bị giết, và một người thứ ba,
người làm chức năng của hạ sĩ, đã bị một viên đạn vào đùi, anh
ta ngồi trên một mảnh đá và băng bó vết thuơng với vẻ nghiêm
trọng, chăm chú của một bà già đang cố gắng gắn lại những mảnh
của một cái đĩa bị vỡ. Ba người khác cắm lưỡi lê lên nòng súng,
họ quyết tâm bán mạng sống của họ càng đắt giá càng tốt.

"Chúng nó tới!" Belmont kêu lớn, ông đang quan sát cánh đồng.


"Được, chúng cứ tới đi!" ông đại tá trả lời trong khi cho hai
bàn tay vào túi quần. "Ồ, lũ súc sinh! Lũ súc sinh chết toi!l".


Chính số phận, những tên dắt lừa khốn khổ đã làm mất sự điềm
tĩnh của người quân nhân già. Trong lúc những phát súng được bắn
qua, bắn lại, lũ trẻ bụi đời nằm chất đống lên nhau, làm thành
một nhóm người đáng thuơng giữa các tảng đá, dưới chân đồi. Khi
chúng nhìn thấy bọn thầy tu Hồi giáo xung kích, chúng nghĩ rằng
chúng có nguy cơ trở thành những nạn nhân đầu tiên; thế là chúng
nhảy tót lên lưng lừa, miệng thì gào thét vì sợ hãi, và chúng
tìm cách chạy trốn qua cánh đồng. Nhưng tám hay mười kỵ binh
đứng gác bên hông đã tiến lên trong lúc súng nổ. Chúng xông ngay
vào lũ trẻ dắt lừa và chém chúng thành từng mảnh với một sự hung
bạo lạnh lùng, một thằng nhỏ bụi đời chạy thoát khỏi bọn truy
sát được một lúc, nhờ những bước chân dài của chúng, nhưng con
lạc đà cuối cùng cũng bắt kịp con lừa của nó, con lừa này không
còn trẻ trung nữa, và một tên Ả-Rập đã phóng ngọn giáo của y cắm
sâu vào cái lưng đang cúi xuống. Những cái xác bé nhỏ mặc đồ
trắng trông giống như một đàn cừu đang gặm cỏ trong bãi sa mạc.


Nhưng các du khách đã không có thì giờ để thuơng xót cho số phận
những đứa bé dắt lừa. Chính ngay cả ông đại tá, sau sự bùng nổ
của cơn giận dữ, ông cũng quên ngay bọn chúng. Bọn kỵ binh của
toán tiền phong đã cho những con lạc đà phi xuống tới chân đồi;
ở đó chúng nhảy xuống đất, và để mặc cho những con vật quì phục
xuống một cách lặng lẽ, chúng tiến bước trên con đường nhỏ dẫn
tới chỗ đất bằng. Chúng có năm mươi tên nhảy nhót từ tảng đá này
sang tảng đá nọ. Không một phát súng, không chậm trễ, chúng tràn
ngập ba người lính da đen, giết chết một người, và dẫm lên hai
người khác, rồi chúng xuất hiện trên nền đất bằng, nơi đó một
cuộc chống cự bất ngờ đã chặn chúng lại một lúc.

Đứng sát vào với nhau, các du khách đang chờ đợi bọn Ả Rập tới,
mỗi người một tâm trạng khác nhau. Ông đại tá, tay đút trong túi
quần, đang gắng gỏi huýt sáo miệng, mặc dù môi ông đã khô khổng.
Belmont thì khoanh tay đứng tay vào một tảng đá, đầu cúi gằm,
ông cau mày một vẻ bực bội, trí não con người đã được sinh ra
như vậy, cho nên anh chàng người Ái Nhĩ Lan cảm thấy bối rối vì
ba viên đạn đã mất và vì một tì vết vào danh tiếng xa thủ thuợng
thặng hơn là vì cái số phận đang chờ đợi ông. Cecil Brown đứng
thẳng người, cứng nhắc, nôn nóng kéo những cái đầu của những sợi
râu mép lưa thưa. Ông Fardet vừa làu bàu vừa nhìn cái cổ tay đầy
máu me của ông. Ông Stephens lắc đầu trong lúc suy nghĩ tới sự
bất lực cực nhọc của ông và tiêu biểu khá đúng cho cái trật tự
và luật pháp đang bị nhạo báng.

Ông Stuart, lúc nào cũng được che kín bởi cái dù của ông, thì có
một bộ mặt lầm lì và một cái nhìn chăm chú. Headingly thì nằm
bất động trên tảng đá : cái mũ của ông đã rơi mất; ông có vẻ rất
trẻ với mái tóc vàng hoe bù xù và những đường nét rất rõ ràng.
Anh chàng thông ngôn thì ngồi trên một hòn đá và vặn xoắn hai
bàn tay một cách bồn chồn, nôn nóng. Đó là tình trạng của họ mà
bọn Ả Rập đã bắt gặp trên lòng đường khi chúng tràn ra.

Và rồi trong lúc những tên xung kích đầu tiên xông tới để bắt
những nạn nhân của chúng thì một sự cố hoàn toàn bất ngờ đã chặn
chúng lại. Từ lúc nhìn thấy bọn thầy tu Hồi giáo, vị mục sư to
béo của Birmingham đã cho người ta ấn tượng một người toàn thân
bị cứng đơ. Ông đã không nhúc nhích, ông đã không há miệng ra
nhưng bất thình lình ông nhảy chồm lên với một khí lực vừa dũng
mãnh, vừa oai hùng. Phải chăng ông đã bị thúc đẩy bởi ruột thứ
cuồng điên nảy sinh từ sự hoảng sợ? Dòng máu của một vị tổ tiên
đã đột ngột thức dậy trong các mạch máu của ông chăng? Sự thật
là ông đã phát ra một tiếng kêu man dại, cướp lấy một cây gậy và
bắt đầu đánh những tên Ả Rập với một sự hung hãn còn dữ tợn hơn
cả sự hung hãn của chúng. Một người trong các nhân chứng của
cảnh này đã khẳng định với tôi rằng trong tất cả những hình ảnh
đã làm sáng rực ký ức của ông, không có hình ảnh nào được lưu
lại rõ ràng hơn cái hình ảnh của con người to lớn này, mình đẫm
mồ hôi và nhảy nhót với một sự mau lẹ không thể tưởng tượng
được, dùng hết tay này tới tay khác đánh vào những tên Ả Rập vừa
thoái lui, vừa la hét om sòm. Rồi từ phía sau một tảng đá một
ngọn giáo bay từ thấp lên cao, và vị mục sư ngã quị xuống, rồi
cả đàn những tên xung kích chạy ùa ra dẫm lên trên xác ông để
bắt giữ các du khách. Những con dao lấp lóe sáng, nhưng bàn tay
thô cục nắm lấy cổ tay họ và cổ họ, họ bị xô đẩy và đem đi một
cách thô bạo trên con đường nhỏ, mà phía dưới nó những con lạc
đà đang đứng đợi.

"Quốc vương vạn tuế!" Tù trưởng vạn tuế!" anh chàng người Pháp
kêu lên trong lúc vung vẩy cái bàn tay không bị trói của anh ta.


Một nhát báng súng vào lưng bắt ông ta im lặng.

Vào lúc này thì cái nhóm nhỏ các khách du ngoạn đang đứng dưới
chân núi Abousir, nếu bọn người Ả Rập không vung vẩy những khẩu
súng của chúng thì họ đã có thể tưởng rằng họ bị sa vào tay
những tên man rợ của thế kỷ thứ bảy. Thật sự không có một chút
gì khác biệt giữa những kẻ bắt cóc họ với những chiến binh của
sa mạc là những người đầu tiên đã mang biểu tượng lưỡi liềm ra
ngoài nước Ả Rập. Đông phương là bất biến. Những tên kẻ cướp
thầy tu Hồi giáo vẫn không kém dũng cảm, kém hung bạo, kém cuồng
tín hơn là tổ tiên của chúng. Chúng đứng thành vòng tròn, tựa
lên những khẩu súng hay những ngọn giáo của chúng, và ngắm nghía
những kẻ bị bắt với những cái khăn đỏ thắt nút quanh cổ và quanh
đầu, đến nỗi mà những cái nhìn hung hãn của chúng nom như toé
lên từ một cái khung đỏ sẫm, những đôi giày màu vàng bằng da
sống, một cái áo dài trắng với những mảnh nâu và vuông ghép lại
với nhau. Tất cả bọn chúng đều được vỏ trang bằng súng, một tên
trong bọn chúng nó một cái tù và đeo dưới nách. Một nửa trong
bọn chúng là người da đen: hai gã đàn ông đẹp trai, mình đầy bắp
thịt, những chàng Hercules da đen chính cống. Những tên Ả Rập
bagarras họp thành một nửa kia; người nhỏ bé, da nâu khô khan,
nóng nẩy, với những con mắt hung ác và những cặp môi mỏng dính.
Tên chỉ huy cũng là một tên Bagarra nhưng y to lớn hơn những
đồng bào của y, và một chòm râu đen dài xuống tới ngực y; dưới
cặp lông mày rậm rạp đen xì đôi mắt lạnh lùng và cương nghị của
y sáng long lanh như thủy tinh trong khi y kiểm tra các tù nhân
của y. Ông Stuart đã được khiêng xuống phía dưới; ông đã bị mất
cái mũ, ông vẫn còn bộ mặt đỏ bừng vì giận dữ, và ở một chỗ cái
quần của ông bị dính vào cẳng chân. Hai người lính Soudan còn
sống sót, những y phục màu xanh đầy các vết máu, đang đứng yên,
không nhúc nhích và rất chăm chú, bên cạnh cái nhóm người xơ xác
này.

Tên chỉ huy lần lượt nhìn vào mặt họ, từng người một trong khi
lấy tay vuốt ve bộ râu của y. Sau đó y thốt ra mấy tiếng với một
giọng khàn khàn, oai vệ, và Mansoor bước ra, lưng khom xuống và
những lòng bàn tay cầu khẩn. Bao giờ cũng có một cái gì đó hài
hước trong cái váy của hắn kêu xột xoạt trước ngọn gió và trong
cái kiểu áo tơi không có tay che phủ hai vai của hắn; nhưng lúc
này, dưới ánh nắng buổi trưa, ở giữa vòng vây của những bộ mặt
hung tợn, cái bóng của hắn đã cho thêm vào cảnh trí môt phần bổ
sung kỳ cục của sự kinh hoàng. Chàng thông ngôn chào đi, chào
lại như một con búp bê máy trước khi đột ngột ngã lăn ra, mặt úp
xuống đất, sau một câu nói ngắn ngủi của tên chỉ huy. Anh ta vùi
kín trán và hai bàn tay vào trong cát.

"'Thế là nghĩa làm sao, Cochrane?" Belmont hỏi. "Tại sao hắn lại
làm cho người ta chú ý như vậy nhỉ?"

Ông đại tá trả lời:

- Theo chỗ tôi hiểu thì tất cả đều chấm dứt với chúng ta.

"Nhưng thật là vô lý!" anh chàng người Pháp bị hoàn toàn khích
động, kêu lớn lên. "Tại sao những người kia lại làm cho tôi phải
đau khổ, dù là một chút ít thôi? Tôi chưa bao giờ làm hại họ cả.
Ngược lại, lúc nào tôi cũng đã là bạn của họ. Nếu tôi có thể nói
chuyện với họ, tôi sẽ làm cho họ hiểu được tôi. Ê này anh thông
ngôn! Mansoor!..."

Những điệu bộ đầy nhiệt tình của ông Fardet đã lôi kéo sự chú ý
của tên chỉ huy bagarra. Tên này lại phát ra một câu hỏi ngắn
gọn. Mansoor quì gối dưới chân y, trả lời y.

-... Nói với ông ấy rằng tôi là người Pháp, anh thông ngôn! nói
với ông ấy rằng tôi là một người bạn của Quốc Vương, nói với ông
ấy rằng các đồng bào của tôi không bao giờ có xích mích với ông
ấy, mà những kẻ thù của ông ấy cũng là kẻ thù của chúng tôi!

Mansoor nói:

- Ông chỉ huy hỏi ông theo tôn giáo nào. Ông ấy nói Quốc vương
không cần chút nào tới tình bạn của những kẻ ngoại đạo và những
kẻ vô tín ngưỡng.

- Hãy giải thích cho ông ấy rằng ở Pháp chúng tôi coi tất cả các
tôn giáo đều tốt cả.

- Ông chỉ huy nói rằng chỉ có con chó báng bổ tôn giáo và đứa
con trai của một con chó mới khẳng định rằng tất cả mọi tôn giáo
cũng đều tốt như nhau. Ông ấy nói rằng nếu ông đích thực là bạn
của Quốc Vương, thì ông sẽ tiếp nhận kinh Coran và sẽ trở thành
ngay tại nơi đây một tín đồ chân chính. Trong trường hợp đó, ông
ấy sẽ gởi ông về Khartoum bình an vô sự.

- Nếu không thì sao?

- Nếu không thì ông sẽ chiu chung số phận với những người khác.


- Vậy thì hãy trình lên ông chỉ huy những lời chúc tụng của tôi
và nói với ông ấy rằng người Pháp không có thói tục thay đổi tôn
giáo dưới sự cưỡng ép.

Viên chỉ huy nói ra một vài tiếng, rồi quay lại bàn bạc với một
tên Ả Rập thấp lùn đứng bên cạnh y.

"Ông ấy nói, thưa ông Fardet" anh chàng thông ngôn nói tiếp,
"nếu ông còn nói nữa thì ông ấy sẽ làm ông biến thành một miếng
thịt băm để cho chó ăn. Xin ông đừng nói gì thêm làm cho ông ấy
nổi giận, vì ông ấy đang quyết định số phận của chúng ta".

"Hắn là ai vậy?" ông đại tá hỏi.

- Ali Vabrahim. Chính là người năm ngoái đã mở cuộc hành quân
vào làng của người Nubie và là người đã tàn sát tất cả dân làng
ở đó.

“Tôi đã nghe nói tới hắn ta", ông đại tá nói. Hắn ta đã nổi danh
là một trong những tên trùm thầy tu Hồi giáo gan dạ nhất và
cuồng tín nhất. Cảm ơn Thượng đế là các phụ nữ đã không lọt vào
tay chúng!"

Hai tên Ả Rập trao đổi vài câu với sự dè dặt khắc khổ làm người
ta kinh ngạc trong một chủng tộc ở miền Nam, chúng quay lại phía
anh thông ngôn vẫn còn quì gối trên bãi cát. Chúng đưa ra nhiều
câu hỏi linh tinh về các tù nhân trong khi chỉ chỏ hết người này
tới người nọ. Chúng lại bàn bạc với nhau một lần nữa, và sau
cùng thì chúng nói với Mansoor một vài tiếng, cùng lúc kèm theo
một cử chỉ khinh mạn bằng bàn tay để biểu thị rằng y có thể dịch
những câu này cho các du khách.

"Thưa Quí vị, ta hãy tạ ơn trời, vì tôi tin rằng chúng ta được
thoát nạn trong lúc này!" Mansoor nói thì thào trong khi chùi
cái trán lem luốc cát của y. "Ali Wad lbrahim nói rằng một kẻ vô
tín ngưỡng chỉ đáng lãnh một nhát kiếm của người con trai của
đấng tiên tri, nhưng đấng bề trên Omdurman cho rằng có số vàng
mà gia đình các quí vị trả cho các quí vị thì tốt hơn. Cho tới
khi nộp khoản tiền chuộc đó, quí vị sẽ có thể làm việc như những
người nô lệ của Quốc Vương trừ khi ngài quyết định bắt quí vị
phải chết. Quí vị sẽ leo lên lưng lạc đà và quí vị sẽ cùng đi
với đoàn quân.

Chờ tới khi chấm dứt việc thông dịch, tên chỉ huy ra một cái
lệnh ngắn gọn, một tên da đen bước một bước về phía trước và giơ
cao lên một thanh gươm mũi cong, dài. Anh chàng thông ngôn co
dúm người lại như một con thỏ khi trông thấy một con chồn đen và
y lại phủ phục xuống trên bãi cát.

"Việc gì xảy ra vậy, Cochrane?" Cecil Brown hỏi. Quả thực viên
đại tá đã từng phục vụ ở Đông Phương và ông là người duy nhất
trong bọn du khách đã có một vài hiểu biết về tiếng Ả Rập.

- Theo chỗ mà tôi hiểu được thì hắn ta nói giữ lại mạng sống của
anh thông ngôn thật là vô ích, vì không có ai quan tâm tới
chuyện trả tiền chuộc cho anh ta, và anh ta lại quá mập để làm
một tên nô lệ tốt.

"Rõ tội nghiệp!" Brown kêu lên "Này, Cochrane, hãy nói với bọn
chúng tha mạng cho anh ta. Chúng ta sẽ không để cho anh ấy bị
sát hại trước mắt chúng ta chứ? Báo cho chúng biết là chúng ta
sẽ gom góp tiền bạc trong chúng ta. Tôi đồng ý với bất cứ một số
tiền phải chăng nào".

"Tôi cũng tham gia cho tới giới hạn các khả năng của tôi".
Belmont la lớn.

"Chúng ta sẽ ký một tờ bảo chứng", ông luật sư nói. "Nếu tôi có
được một tờ giấy và một cái bút chì, tôi sẽ thảo văn bản trong
một lát, và tên chỉ huy này sẽ có thể tin vào hiệu lực của nó".


Nhưng tiếng Ả Rập của ông đại tá còn kém quá và chính Mansoor
thì lại quá hoảng sợ không còn hiểu được cái đề nghị mà anh ta
là đối tượng. Tên da đen nhìn lão chỉ huy để hỏi ý kiến, rồi cái
tay dài thòng, đen đúa của y dãn ra. Nhưng anh chàng thông ngôn
gào lên một câu làm nhát chém ngừng lại, tên chỉ huy và gã phụ
tá bước tới gần hắn. Những tên khác làm thành một vòng tròn
chung quanh con người đang phủ phục van xin lòng thương.

Ông đại tá không hiểu nguyên do của sự thay đổi đột ngột này,
nhưng một bản năng đã cảnh báo Stephens làm ông tái mét đi vì
hoảng sợ.

"Ôi đồ khốn kiếp! " ông la lớn mặt tái nhợt đi. "Câm miệng mi
lại, đồ khốn nạn! Im miệng đi! thà rằng chết... Phải, chết một
ngàn lần!"

Đã quá trễ rồi. Những du khách đã đoán ra với phương sách đê
tiện nào tên hèn nhát hy vọng cứu vãn mạng sống của hắn; hắn sẽ
tiết lộ những người đàn bà. Họ nhìn tên chỉ huy, mà nét mặt để
lộ ra sự khinh bỉ của một con người dũng cảm, ra một dấu hiệu
cao ngạo

tỏ sư ưng thuận; rồi Mansoor nói một cách vội vã trong lúc chỉ
lên đỉnh núi! Theo một hiệu lệnh của tên chỉ huy, hơn mười tên
chiến binh leo lên con đường nhỏ và trở lại chỗ nền phẳng; tới
đó các du khách không còn nhìn thấy chúng nữa, họ nghe thấy một
tiếng kêu sắc nhọn, một tiếng gào thét kéo dài của sự kinh ngạc
và khủng khiếp. Một vài lát sau bọn man rợ tái hiện, chúng đi
vây quanh hai người đàn bà. Sadle là người có đôi chân nhanh nhẹ
nên đi xuống sườn đồi cùng với những tên đi đầu và cổ vũ người
cô bằng cách quay đầu nhìn lại phía bà ấy! Người con gái già
vùng vẫy chống cự giữa bọn chiến binh mặc đồ trắng, nàng có dáng
điệu một con gà nhép bị lôi ra khỏi ổ.

Cặp mắt đen của tên chỉ huy, thản nhiên trước cảnh tượng của cô
Adams, nhưng lại bốc lửa lên khi y nhìn thấy cô thiếu nữ. Theo
lệnh của y, các tù nhân được dẫn tới chỗ những con lạc đà đang
quì gối. Họ đã bị lục soát, các vật dụng trong túi họ được ném
vào một cái bao mà Aail Wad Ibrahim đã tự tay mình lấy dây buộc
lại.

"Này Cochrane" Belmont thì thầm nói. "chúng đã không phát hiện
được khẩu súng lục nhỏ mà lúc nào tôi cũng mang trong người. Nếu
tôi bắn hạ tên không ngôn khốn kiếp kia về tội đã tố cáo các phụ
nữ có được không?"

Ông đại tá lắc đầu.

"Tốt nhất là ông hãy giữ nó đấy". Ông trả lời với một giọng ảm
đạm "Các phụ nữ sẽ có thể rất cần tới nó trước khi kết thúc mọi
chuyện này!”.

Hãy cảm ơn bài viết của donka bằng cách bấm vào "" ở bên dưới nhé!!!

Về Đầu Trang Go down

https://dlthanh.forumvi.com

donka
donka

//dondonitt

Tổng số bài gửi : 143
Points : 425
Reputation : 25
Join date : 06/06/2011

Bài gửiTiêu đề: Re: Tấn Thảm Kịch Của Tàu korosko Tấn Thảm Kịch Của Tàu korosko Icon_minitimeThu Jun 09, 2011 10:57 am

Chương 5:


Những con lạc đà lông trắng hay màu hạt dẻ đang quì gối thành
một hàng; những quai hàm của chúng luôn động đậy để nhai một
cách nhịp nhàng và những cái đầu diễm lệ của chúng quay về bên
phải hay bên trái với một bộ điệu õng ẹo. Đó là đặc điểm của
phần lớn những con vật cao quí, là những con vật chính cống để
chạy ở nước Ả Rập, chúng có những cái chân mảnh dẻ và cái cổ nhỏ
là những thứ chứng thực cho chủng loại của chúng. Nhưng chúng
cũng được kèm theo một vài con vật chậm chạp hơn, năng nề hơn,
được nuôi nấng tồi tệ và trên da những con vật này ta còn nhìn
thấy những vết sẹo đen của những trận đánh nhau từ trước. Lúc đi
thì chúng chuyên chở lương thực và những túi da đựng nước uống
của bọn kẻ cướp, được trút bỏ các vật nặng trên mình, các vật
này được san sẻ ngay cho những con lạc đà khỏe mạnh, chúng lặng
lẽ tiếp nhận những tù nhân. Chỉ có một mình ông Stuart là bị
trói tay thôi : bọn người Ả Rập đã biết rằng đó là một giáo sĩ
và vốn có thói quen liên kết tôn giáo với bạo lực, chúng thấy
cơn nóng giận của ông là hoàn toàn bình thuờng thôi, tuy nhiên
chúng đã coi ông như một kẻ nguy hiểm nhất và liều lĩnh nhất
trong toán tù nhân của chúng. Ngược lại, những người khác không
phải là đối tượng của một biện pháp phòng ngừa nào, hơn nữa sự
chậm chạp của những con vật họ cưỡi sẽ ngăn cản mọi hy vọng đào
thoát của họ. Trước những lời quát tháo của bọn Ả Rập, những con
lạc đà đứng lên và đám rước dài chuyển động, quay lưng về phía
con sông hiền hậu, đám rước hướng về phía đám sương mù tím lóng
lánh bao quanh bãi sa mạc vừa rùng rợn vừa xinh đẹp, với màu sắc
sặc sỡ như một tấm da cọp có màu đen và vàng ửng.

Đại tá Cochrane là người duy nhất trong đám du khách đã từng nếm
mùi di chuyển trên lưng lạc đà. Những người bạn đường của ông
thấy mình bị nhấc bổng lên khá cao bên trên mặt đất, với sự lắc
lư quái dị của con vật, cộng với sự thiếu vững vàng của cái yên
làm họ nôn mửa, và sợ hãi. Nhưng sự khó chịu về thể xác này
không thấm thía gì so với cơn lốc trong đầu óc họ, một cái vực
thẳm vừa được đào ra giữa quá khứ và hiện tại của họ. Được đào
ra một cách mau lẹ quá, bất ngờ quá! Trước đây chưa đầy một giờ
họ còn ở trên đỉnh núi Abousir cười nói huyên thuyên hay càu
nhàu với sự nóng bức hay lũ ruồi. Headingly đã công kích dữ dội
những màu sắc thái quá của tạo hóa, làm sao mà có khi nào họ sẽ
quên được sự tái nhợt của đôi má của ông ấy khi ông ấy bị đánh
chết nằm bất động trên núi đá đen xì? Sadic đã thuyết giảng về
những chiếc áo dài và những quần áo, lúc này thì nàng đang bám
chặt lấy cái núm của cái yên bằng gỗ, gần như phát điên cuồng,
với tất cả hy vọng chỉ còn là ngôi sao đỏ của sự tự sát đang mọc
lên trong bộ não non trẻ của nàng. Về lòng nhân đạo, về sự hợp
lý, về cách lập luận, những điểm đó không còn là vấn đề nữa: chỉ
có sự hạ nhục phũ phàng của bạo lực là còn lại. Trong lúc này
tàu thủy của họ đang đậu phía sau mỏm đá thứ nhì, đang đợi họ ở
nơi đó, tàu thủy của họ, những căn phòng của họ, quần áo tinh
khiết, những cái cốc óng ánh, quyển tiểu thuyết sau cùng hợp
thời trang, những tờ báo ở Luân Đôn. Họ không cần phải có một cố
gắng lớn lao về trí tưởng tượng để hình dung ra cái lều vải
trắng, bà Shlesinger dưới cái mũ màu vàng của bà ấy, và bà
Belmont nằm duỗl dài trên cái ghế dài! Phải, nó gần như hiện ra
trong tầm mắt của họ, cái mảnh nhỏ bé đang nổi bập bềnh này của
tổ quốc họ, và cứ mỗi bước chân không đều đặn, lặng lẽ là những
con lạc đà lại làm cho họ cách xa con tàu một cách tuyệt vọng.
Ngay cả buổi sáng hôm ấy, hình như đấng tối cao đã tỏ ra tốt
bụng với họ! Và đời sống thoải mái biết bao! Có thể là hơi nhàm
một chút, nhưng rất thư thái, rất an nhàn, còn bây giờ thì...


Cái khăn đỏ, những cái áo với nhiều mảnh chắp nối, những đôi
giày vàng đã báo cho ông đại tá biết rằng những người này không
hợp thành một bọn cướp của dân du mục, mà chúng thuộc về đạo
quân chính qui của Quốc Vương. Càng đi vào sâu trong sa mạc,
chúng càng tỏ ra là chúng có một kỷ luật thô bạo cần thiết cho
nhiệm vụ của chúng. Cách môt ngàn năm trăm mét về phía trước và
ở mỗi bên sườn, những tên xích hầu của chúng lặn vào và lại hiện
ra ở giữa những cồn cát vàng. Ail Wad lbrahim dẫn đầu đoàn
người, viên phụ tá của hắn chỉ huy toán hậu vệ. Đám rước kéo dài
trên hai trăm mét, với nhóm nhỏ những tù nhân ở quãng giữa. Vì
bọn Ả Rập không tìm cách cách li họ với nhau, ông Stephens đã có
thể lướt con lạc đà của ông vào giữa những con lạc đà của hai cô
gái.

"Chớ nản lòng, cô Adams ạ!" ông nói. "Rõ ràng đây là một sự lăng
nhục không thể tha thứ được, nhưng không nghi ngờ gì là sẽ có
những biện pháp thích ứng để dàn xếp công việc. Tôi tin chắc
rằng chúng ta sẽ không phải chịu đựng một thứ gì trầm trọng hơn
là một vài sự bực bội tạm thời. Nếu không có tên đạo tặc
Mansoor, thì không ai phát hiện ra các cô!".

Chỉ trong thời gian một giờ đồng hồ cô gái già ở thành phố
Boston đã thay đổi một cách đáng thương: cô đã trở thành một bà
lão rất già. Cặp má nâu của cô hõm xuống, cặp mắt cô long lanh
một cách dữ tợn và không ngừng nhìn vào Sadie với sự lo sợ,
những tai hoạ thường thường gây ra các kỳ tích của sự bất tư kỷ:
tất cả những con người này đang đi tới số mạng của họ, đều đã
vứt bỏ tất cả sự phù phiếm, tất cả lòng vị kỷ, mỗi người chỉ
nghĩ tới người khác. Sadie thì nghĩ tới bà cô của nàng, bà này
lại nghĩ tới Sadie. Bọn đàn ông nghĩ tới những phụ nữ, Belmont
nghĩ tới bà Belmont, nhưng ông cũng nghĩ tới việc khác nữa, vì
ông đã dẫn con lạc đà của ông tới độ cao bằng con lạc đà của cô
Adams.

"Tôi có một điều muốn nói với cô" , ông thầm thì nói. "Chúng ta
có nguy cơ là sắp phải xa nhau, do đó ta nên thực hiện những sự
xếp đặt mà không để mất thì giờ".

"Xa nhau!" cô Adams rên rỉ.

- Nói nhỏ chứ, vì cái thằng quỉ Mansoor kia có thể phản bội
chúng ta một lần nữa. Tôi hy vọng rằng chúng ta sẽ không phải xa
nhau, nhưng đó là một việc có thể xảy ra. Chúng ta phải chuẩn bị
cho sự tệ hại nhất. Thí dụ chúng sẽ có thể quyết định trừ khử
những đàn ông và giữ các cô lại.

Cô Adams rùng mình:

- Tôi phải làm gì? Cầu xin Thuợng đế, ông hãy nói cho tôi biết
là tôi phải làm gì, ông Belmont! Tôi là một phụ nữ già, tôi đã
sống. Nếu chỉ có một mình tôi bị liên luỵ tôi sẽ có thể chịu
đựng tất cả. Nhưng còn Sadie! Tôi đã hoàn toàn phát điên lên khi
tôi nghĩ tới nó, mẹ nó đang chờ nó ở nhà, và tôi thì...

Cô chắp hai bàn tay nhỏ nhắn, gầy gò vào nhau trong một sự lo âu
không thể diễn tả được.

"Hãy luồn một tay vào trong áo choàng của cô", Belmont nói trong
khi cho con lạc đà của ông đứng sát vào con lạc đà của cô gái
già người Mỹ. "Chớ để nó rơi mất. Đó! Bây giờ hãy giấu nó bên
trong áo dài của cô. Cô sê luôn luôn có một cái chìa khóa để mở
cho cô bất kỳ một cái cửa nào".

Cô Adams sờ vào cái vật mà ông ta mới đưa cho cô và thoạt đầu cô
nhìn ông với sự kinh hoàng. Rồi cô cắn môi và lắc cái đầu khắc
khổ của cô với sự bất đồng ý. Cuối cùng thì cô nhét khẩu súng
nhỏ dưới áo dài của cô, và cô tiếp tục tiến lên, tâm hồn trong
một cơn bão tố. Có phải đúng là cô ấy không, cô Eliza Adams ở
Boston, người đã sống một cuộc đời chật hẹp nhưng sung sướng
giữa căn nhà êm ấm của cô ở Đại lộ Commonwealth và giáo đường
trưởng lão phái ở Tremont không? Kia kìa, cô đang ngồi chót vót
trên một con lạc đà, bàn tay úp chặt trên một cái báng súng lục,
và đang cân nhắc trong đầu sự biện minh cho một vụ sát nhân. Hỡi
ôi cõi đời, cõi đời phản phúc, làm thế nào để đặt lòng tin vào
mi? Khi mi phô bày những bộ mặt tồi tệ của mi với chúng ta thì
chúng ta có thể đối phó được, nhưng khi mà mi làm ra bộ dịu dàng
nhất và trơn tru nhất là khi mà chúng ta phải e sợ mi nhiều hơn.


"Cô Sadie ạ, cùng lắm thì chỉ là vấn đề tiền chuộc thôi",
Stephens nói trong khi diễn tả sự trái ngược với điều mà ông
đang thật sự suy nghĩ. Ngoài ra chúng ta vẫn còn ở rất gần Ai
Cập và ở xa xứ sở bọn thầy tu Hồi giáo. Cô có thể tin chắc rằng
sự truy lùng sẽ được thực hiện một cách ráo riết. Điều cần thiết
là cô phải cố sức đừng để mất lòng can đảm, và phải hy vọng rằng
mọi sự rồi sẽ qua đi một cách tốt đẹp".

"Không, ông Stephens ạ, tôi không sợ!" Sadie trả lời trong lúc
quay về phía ông một bộ mặt trắng bệch, sự kiện này đã phủ nhận
những lời nói của cô. "Chúng ta đang nằm trong tay Thuợng đế, và
chắc chắn là Ngài sẽ không độc ác với chúng ta. Khi các sự việc
diễn tiến tốt đẹp thì người ta dễ dàng nói chắc rằng người ta
tin tưởng ở Ngài, nhưng bây giờ sự thử thách có tính chất quyết
định đang tới gần, nếu Ngài có ở trần cao kia, đằng sau khoảng
trời xanh...

"Ngài ở trên cao kia!" một tiếng nói ở phía sau họ đáp lời. Đó
là vị mục sư ở Birmingham, người vừa theo kịp nhóm họ. Hai bàn
tay bị trói của ông bám chặt lấy cái yên và ông lắc qua, lắc lại
cái thân hình béo xị ở mỗi bước đi của con lạc đà, máu chảy nhỏ
giọt ở cẳng chân bị thương của ông, và những con ruồi bám chặt
vào đó, ánh nắng thiêu đốt của sa mạc giội lên đầu ông vì trong
lúc đánh lộn ông đã đánh mất cái mũ và cái dù của ông. Sự khởi
dầu của cơn sốt nóng lạnh đã làm hơi ửng hồng cặp má đồ sộ xanh
mét của ông, mắt ông long lanh, với các bạn đồng hành của ông
thì bao giờ ông cũng có vẻ với tầm thuờng. Lúc này thì ông đã
biến đổi, ông đã trở thành thanh khiết, linh diệu và hăng say.
Ông đã trở thành dũng mãnh một cách quá kỳ lạ khiến cho chỉ cần
nhìn vào ông mà những người khác cũng cảm thấy dũng mãnh hơn
lên. Ông nói về sự sống và sự chết, về hiện tại và về những hy
vọng về tương lai của họ, đám mây đen của sự khốn khổ của họ đã
bắt đầu thủng rách và để một tia ánh sáng lọt qua. Cecil Brown
nhún vai, vì không phải chỉ trong một giờ đồng hồ mà ông thay
đối được các tín niệm của cả đời ông, nhưng số người còn lại của
cái nhóm nhỏ này, kể cả Fardet, đều cảm thấy động tâm và tăng
thêm nghị lực. Mọi người đều bỏ mũ ra khi ông cầu nguyện. Ông
đại tá lấy khăn quàng cổ bằng lụa đỏ của mình làm ra môt cái
khăn đội đầu và nài nỉ ông Stuart hãy quấn nó lên đầu. Với bộ y
phục tăng lữ và cái khăn sặc sỡ này, trông ông giống như một
người nghiêm nghị mà lại hóa trang để đùa với lũ trẻ con.

Rồi sự hành hạ bất khả kháng của sự khát nước tới góp thêm vào
với những cơn nôn mửa do bước đi của những con lạc đà gây ra,
nắng như thiêu đốt; ánh nắng phản chiếu trên bãi cát vàng; cánh
đồng rộng lớn sáng long lanh đến độ mà họ có cảm tưởng là cỡi
ngựa đi

trên một lớp kim loại đang bị nung chảy thành chất lỏng. Môi họ
khô queo như bị nóng cháy, và lưỡi họ thì như là một tiếng da
khô. Khi họ nói chuyện với nhau, họ nói một cách cứng đơ kỳ quặc
vì họ chỉ phát âm được các nguyên âm là không cần cố gắng thôi.
Cô Adams

cúi đầu xuống, cái mũ lớn đã che khuất bộ mặt của cô.

Sadie nói:

- Cô tôi sẽ ngất xỉu nếu người ta không cho cô ấy uống nước. Ông
Stephens ơi, chúng ta không thể làm được một việc gì cả à?

Bọn thầy tu Hồi giáo đang ở gần đó đều là bọn bagarras, ngoại
trừ một tên da đen mà bộ mặt còn mang dấu vết của một bệnh đậu
mùa mới lành. Hắn có vẻ ít hung ác hơn lũ bạn người Ả Rập của
hắn, do đó Stephens đã đánh liều chạm vào khuỷu tay hắn và lần
lượt chỉ cho hắn cái túi da đựng nước và cô gái già. Tên da đen
lắc đầu một cách không đồng ý, nhưng hắn ném một cái nhìn đầy ý
nghĩa vào những tên Ả Rập như thể muốn nói rằng nếu không có
chúng ở đó thì hắn sẽ xử sự một cách khác. Rồi hắn đặt ngón tay
trỏ đen đúa của hẳn lên ngực hắn.

"Tippy Tilly" hắn nói.

"Là cái gì?" đại tá Cochrane hỏi.

"Tippy Tilly" , tên da đen nhắc lại, hạ thấp giọng như thể hắn
không muốn để cho lũ bạn của hắn nghe thấy.

Ông đại tá lắc đầu.

"Rõ ràng là tiếng Ả Rập của tôi quá tệ. Tôi không hiểu hắn muốn
nói gì", ông càu nhàu.

"Tippy Tilly. Hicks Pacha", tên da đen nhắc lại.

"Tôi nghĩ rằng hắn không muốn làm hại chúng ta, nhưng tôi không
hiểu một tiếng nào trong ngôn ngữ của hắn", ông đại tá nói với
Belmont. "Ông không nghĩ rằng hắn muốn nói tên hắn là Tippy
Tilly và hắn đã giết chết Hicks Pacha chứ?"

Tên da đen nhe những cái răng lớn, trắng ởn ra khi hắn nghe thấy
nhắc lại những từ mà hắn đã dùng.

Hắn nói:

- Aiwa, Tippy Tilly, Bimbashi Mormer... Boum!

"Đúng rồi! tôi hiểu rồi"' Belmont nói lớn. Hắn cố sức nói tiếng
Anh Tippy Tilly, đó là gần như tiếng pháo binh Ai Cập. Hắn đã
phục vụ trong pháo binh Ai Cập dưới quyền Bimbashi Mortimer. Hắn
đã bị bắt làm tù binh khi Hicks Pacha bị tiêu diệt và hắn đã trở
thành thầy tu Hồi giáo để giữ lấy mạng sống của hắn. Hãy hỏi hắn
xem tôi có lầm không!".

Ông đại tá nói vài tiếng và nhận được một câu trả lời nhưng hai
tên Ả Rập tiến lại gần, tên da đen im tiếng và thúc lạc đà bước
nhanh.

"Ông nói đúng", ông đại tá nói. "Tên da den này không muốn làm
hại chúng ta một chút nào, và hắn thích chiến đấu cho Phó Vương
Ai Cập hơn là cho Quốc Vương. Tôi không biết là bằng cách nào
hắn sẽ có thể giúp đỡ chúng ta, nhưng tôi đã từng ở trong những
tình thế tệ hại hơn trong hợp này, tuy nhiên tôi vẫn thoát nạn
được. Tóm lại, không phải là chúng ta đã ở ngoài tầm tấn kích,
và những người truy kích còn có thể bắt kịp chúng ta trong bốn
mươi tám giờ nữa ".

Belmont làm những con toán với sự chính xác thường lệ của ông.


"Khi chúng ta ở trên núi thì vào khoảng gần trưa", ông nói. "Ở
trên tàu người ta bắt đầu lo lắng khi thấy chúng ta không trở về
vào lúc hai giờ"

"Đúng", ông đại tá ngắt lời. "Chúng ta phải ăn điểm tâm lúc hai
giờ. Tôi nhớ rằng tôi đã nói là khi trở về tôi sẽ uống rượu...
Ồ, lạy Chúa, tốt nhất là đừng nghĩ tới chuyện đó nữa!".

"Viên thiếu tá là một ông già nhu nhược", Belmont nói tiếp.
"Nhưng tôi có lòng tin tuyệt đối vào sự mẫn nhuệ và tinh thần
cương quyết của vợ tôi. Bà ấy sẽ đòi phải ban hành lệnh báo
động. Giả thiết là họ đã lên đường lúc hai giờ rưỡi, thì họ sẽ
tới Ouadi-Halfa lúc ba giờ, vì họ di theo dòng nước. Phải mất
bao nhiêu thì giờ để cho đoàn quân cỡi lạc đà rục rịch di
chuyển?".

- Ta hãy tính là một giờ đi.

- Thêm vào một giờ để chúng qua sông. Chúng sẽ tới núi Abousir
vào lúc sáu giờ, và chúng sẽ thấy đường đi ngay tức thì. Vào lúc
đó là sự truy lùng sẽ bắt đầu. Chúng ta chỉ đi trước có bốn giờ,
và trong những con lạc đà này một vài con đã mệt lử. Chúng ta
còn có thể

được giải thoát, Cochrane ạ !

- Phải, có thể một vài người trong bọn chúng ta. Nhưng tôi không
nghĩ rằng ông mục sư còn sống đuợc tới sáng mai, cả cô Adams
nữa. Không phải họ được sinh ra cho cái loại phiêu lưu, mạo hiểm
này. Hơn nữa, chớ quên rằng bọn người này thường có thói ám sát
các tù

nhân khi những người này tìm cách trốn khỏi tay chúng. Belmont
này, trong trường hợp mà ông thoát hiểm, chớ không phải là tôi,
tôi có một vấn đề để áp mà tôi sẽ nhờ ông thanh toán thay tôi.


Họ tiến lại gần nhau để nói rõ hơn về các chi tiết của công
việc.

Tên da đen tự đặt tên mình là Tippy Tilly đã tìm cách lén đưa
một mảnh vải ướt sũng nước vào tay ông Stephens và cô Adams có
thể làm ướt cặp môi. Một vài giọt nước này đã ban cho cô một sức
mạnh mới, một khi qua khỏi sự chấn động đầu tiên, cái bản chất
hăng hái, dẻo dai của cô lại y nguyên như trước.

"Ông Stephens này, những người này không có vẻ muốn làm hại
chúng ta", cô nhận xét. "Họ phải có một tôn giáo giống hệt như
chúng ta; chắc chắn là họ cũng thấy là xấu những gì mà chúng ta
coi là xấu...".

Stephens lắc đầu không trả lời. Ông đã chứng kiến sự tàn sát
những tên dắt lừa, việc mà cô gái già người Mỹ không nhìn thấy.


"... có lẽ" cô nói tiếp, "chúng ta được cử tới chỗ họ để dẫn dắt
họ theo một con đường tốt hơn. Có lẽ chúng ta được cử ra để hoàn
thành một công trình tốt đẹp trong nước họ".

Nếu cô cháu gái không có mặt tại đó thì cái tính tình dũng cảm,
táo bạo của cô đã tìm được sự ủy lạo trong cái khả năng thực
hiện một cuộc truyền giảng phúc âm rực rỡ ở Khartoum, hay sự
biến đổi Omdurman thành cái mẫu nhỏ của một thành phố ở
Nouvelle-Angleterru với những đại lộ rộng lớn.

"Cô có biết cháu đang không ngừng nghĩ tới một điều gì không?"
Sadie hỏi. "Cô có nhớ tới ngôi đền mà chúng ta đã xem vào lúc
nào nhỉ? Phải rồi, đó là vào sáng hôm nay!"

Cả ba người đều thốt ra một tiếng kêu kinh ngạc. Phải, họ đã xem
ngôi đền đó ngay buổi sáng hôm nay, vậy mà ký ức hình như xuất
hiện từ một quá khứ xa xôi, mờ mịt, biến cố xảy ra trong đời họ
càng đột ngột và sâu đậm, thì những ý nghĩ của họ càng đi theo
một chiều huớng khác biệt. Họ ngồi trên lưng lạc đà di chuyển
trong sự yên lặng, cho tới lúc Stephens nhắc nhở Sadie là nàng
chưa nói hết câu nói của nàng.

- À phải! Tôi muốn nói về những hình chạm nổi ở ngôi đền. Ông có
nhớ đoàn tù nhân khốn khổ bị kéo lê dưới chân vị Đại Vương
không? Và hình như họ bị hạ sát giữa bọn chiến binh dẫn giải họ
thì phải? Ai có thể nghĩ rằng chưa đầy ba giờ nữa chúng ta sẽ
gặp cùng một

số phận như vậy! và ông Headingly ...

Nàng lấy tay che mặt và khóc òa.

"Sadie, cháu đừng buồn tủi như thế!" người cô thì thào nói.
"Cháu có nhớ những điều mà ông mục sư đã nói không, tất cả chúng
ta đều nằm trong lòng bàn tay của thượng đế. Ông Stephens, ông
nghĩ rằng chúng sẽ dẫn chúng ta tới đâu?"

Cái mép đỏ của cuốn sách chỉ nam còn thò ra trên cái túi của ông
luật sư, vì bọn người dã man đã không cho nó là đáng quan tâm.
Ông vuốt ve nó bằng một cái nhìn.

- Nếu chúng để tôi giữ nó cho tới chặng dừng chân sau tôi sẽ chỉ
cho cô xem vài trang. Trong khi chờ đợi tôi có một kiến thức
tổng quát về nước này, vì hôm kia tôi đã vẽ một bản đồ nhỏ. Sông
Nil chảy từ Nam tới Bắc. Vậy là chúng ta phải đi thẳng tới phía
Tây. Tôi cho là khi đi dọc theo quá gần bờ sông chúng sợ bị truy
kích. Tôi nhớ là có một con đường cho các đoàn xe, con đường này
chạy song hành với sông Nil, vào khoảng một trăm cây số ở bên
trong đất liền. Nếu chúng ta tiếp tục đi theo huớng này trong
một ngày nữa thì chúng ta sẽ gặp con đường đó. Nếu tôi không lầm
thì nó chảy ngang qua một dãy giếng nước khởi đầu từ Asslout, về
phía Ai Cập, để chảy tới mạn bên kia trong lãnh thổ của bọn thầy
tu Hồi giáo, cũng có thể...

Ông bị cắt ngang bởi một giọng nói sắc nhọn bất thần tuôn ra một
tràng những từ ngữ không có mạch lac, mà cùng chẳng có ý nghĩa.
Hai má của ông Stuart trở nên đỏ hồng, cặp mắt thất thần của ông
sáng rực và vừa di chuyển trên lưng lạc đà, ông vừa nói những
lời lảm nhảm không ai hiểu được. Đấng tạo hóa từ mẫu! Ngài không
để cho lũ con của ngài phải chịu đựng quá nhiều sự hành hạ. "Thế
là đủ rồi! ngài nói. Cái chân bị thuơng này, những cái vảy trên
môi này, sự kinh sợ này, sự chán chường này... Này, hãy thoát ra
một chốc lát, cho tới khi thể xác người lại trở thành nơi cư ngụ
được!" Và ngài dẫn dắt linh hồn vào cảnh Nát bàn của sự nhiệt
cuồng, trong lúc các tế bào chỉnh trang vá víu bên trong ngõ hầu
mọi thứ được ở tình trạng hoàn hảo hơn để đón linh hồn trở về.
Khi bạn nhìn thấy tấm màn của sự hung ác mà tạo hóa dựng lên,
thì bạn hãy cố gắng kéo nó lên, khi đó bạn sẽ kinh ngạc phát
hiện ra một bộ mặt khả ái và rất từ bi.

Bọn Ả Rập quan sát cơn đột biến bất ngờ của ông mục sư với vẻ
hoài nghi, thật ra nó đi gần tới chỗ điên cuồng mà đối với họ
bệnh điên là một điều siêu nhiên và đáng sợ. Một tên trong bọn
chúng tách khỏi hàng để đi nhận lệnh của tù trưởng. Khi hắn trở
lại, hắn nói với những tên bạn của hắn, rồi hai tên Ả Rập đi vây
quanh gần con lạc đà của ông mục sư để giữ cho ông này khỏi ngã.
Anh chàng da đen tốt bụng lướt tới bên ông đại tá và nói thì
thầm vào tai ông hai hoặc ba câu.

"Belmont này, chúng ta sắp dừng chân đó" , Cochrane loan báo.


- Cám ơn Thượng đế! Chúng sẽ cho bọn ta uống nước. Chúng ta
không thể tiếp tục như thế này!

Tôi đã nói với Tippy Tilly là nếu y giúp đỡ chúng ta, chúng ta
sẽ cho y làm bimbashi khi chúng ta đưa y trở lại Ai Cập. Tôi
nghĩ là y không đòi hỏi gì hơn đâu, mà y cũng sẽ phải có quyền
hành chứ. Này Belmont, hãy quay đầu lại và nhìn con sông kìa!


Cho tới lúc này con đường của họ đã đi qua một khoảng bãi cát có
rải rác những núi đá với các sông núi đen xì và lởm chởm; bây
giờ thì nó chạy tới một cánh đồng khô cằn, chia thành nhiều
thung lũng, phủ đầy những đá cuội tròn vo, những đợt sóng trập
trùng lên xuống của địa hình kéo dài tới những ngọn đồi tím ngắt
tận chân trời; chúng đều đặn quá, dài quá, nâu quân, khiến ta có
thể tưởng chúng là những đợt sóng tối om của một cơn sóng khổng
lồ đã bị đông đặc lại. Thỉnh thoảng một túm cỏ xanh nhỏ bé của
lạc đà mọc lên giữa những tảng đá. Phía trước các tù nhân, không
còn gì khác ngoài cái cánh đồng màu nâu và những ngọn đồi màu
tím này. Đằng sau họ, trước hết là những núi đá lởm chởm đen xì
mà họ vừa đi qua với những thung lung cát vàng ối, nhưng xa hơn,
xa hơn rất nhiều, một đường màu xanh nhỏ nhắn chỉ rõ dòng sông
Nil. Bên cạnh sự đơn điệu hoang dã này, đối với họ màu xanh lục
ấy có vẻ tươi mát và kỳ diệu biết bao! Họ cũng nhận ra ngọn núi
cao Abousir, ngọn núi mắc dịch đã gây ra sự tổn thất của họ. Ở
đằng xa kia, con sông vạch ra những khúc quanh co óng ánh của
nó. Ôi, cái thứ chất lỏng long lanh này. Ôi, những bản năng thô
cục, sơ khai đã trỗi dậy ngay trong tâm hồn họ! Họ đã đánh mất
gia đình, đánh mất tổ quốc, đánh mất tự do, nhưng họ đã quên tất
cả để chỉ còn nghĩ tới thứ nước này. Trong cơn mê sảng, ông
Stuart kêu lớn đòi những quả cam, nghe tiếng ông kêu thật là
rùng rợn. Chỉ có một mình anh chàng thô lỗ người Ái Nhĩ Lan là
vượt được lên trên con thú vật: cái đoạn sông mà ông đang ngắm
chắc phải ở gần Ouadi-Halfa và chắc chắn là vợ ông đang ở chỗ
đó. Ông kéo chụp mũ xuống bên trên mắt và miệng nhằn sợi râu mép
đã bạc.

Mặt trời chậm chạp ngả về phương Tây, bóng của họ kéo dài ra
trên con đuờng hẹp. Trời đã mát hơn, gió sa mạc đã nổi lên và
thổi vi vu bên trên cánh đồng. Tên tù trưởng gọi tên phụ tá, cả
hai đều nhìn kỹ các nơi phụ cận, lấy bàn tay che lên hai mắt,
chắc chắn là chúng đang tìm một nơi để nghỉ chân. Rồi, thốt lên
một tiếng gầm gừ thỏa mãn, con lạc đà của tên chỉ huy quì xuống
trên các đầu gối, rồi tới trên các cổ chân và để bụng của nó lên
mặt đất. Tất cả những con lạc đà đi tới chỗ cao của nó đều bắt
chước nó, và đều nằm xuống trên cùng một hàng ngang. Các kỵ binh
đặt chân xuống đất và bày ra trước mắt những con lạc đà các thức
để ăn, nhưng trên các miếng vải, vì một con lạc đà giống tốt
không bao giờ ăn trên mặt đất ngay chỗ nó đứng. Trong những con
mắt hiền lành của các con vật, trong cung cách điềm tĩnh khi ăn,
trong điệu bộ khoan đại của chúng, có một thứ gì là duyên dáng,
là thuộc vẻ nữ tính: chúng gợi ra một cách không thế chối cãi
được hình ảnh một buổi cắm trại của những cô gái già ở giữa bãi
sa mạc của nước Libye.

Những tù nhân được để tự do trong các cử động của họ, làm sao mà
họ có thể nghĩ tới việc đào thoát ở giữa cánh đồng bao la này?
Tên tù trưởng bước lại gần, nhìn họ với những con mắt hắc ám,
trong khi lấy các ngón tay chải chòm râu của y. Trong lúc run
lẩy bẩy, cô Adams phát hiện ra là cái nhìn của tên chỉ huy quay
trở lại dính chặt vào Sadie. Rồi, thấy rõ tình cảnh thể chất của
họ, y phát ra một mệnh lệnh, một tên da đen mang tới một túi
nước và rót cho mỗi người một nửa chén. Nước thì nóng, đầy bùn,
nó có mùi vị của da thuộc, nhưng với khẩu-cái khô queo của họ,
nó có vẻ ngon ngọt biết bao!

Tên tù trưởng nói một vài tiếng khô khan với gã thông ngôn rồi
đi khỏi.

"Thưa quí bà quí ông!... " Mansoor bắt đầu. Hắn định tự ý lấy
lại vẻ quan trọng của hắn, nhưng trước một thứ tia sáng nào đó
trong cặp mắt của ông đại tá hắn khởi đầu một bài biện hộ dài
cho cách cư xử của hắn. Hắn rên rỉ:

-... Làm thế nào mà tôi có thể hành động khác đi được, với lưỡi
gươm kề vào cổ họng?

"Nếu một ngày nào chúng ta trở lại Ai Cập, tôi hứa là sẽ cho anh
một sợi dây thừng quấn vào cổ?" ông đại tá làu bàu một cách hung
hãn. Trong khi chờ đợi...

"Đúng lắm thưa ông đại tá!" Belmont cắt ngang. "Nhưng vì lợi ích
của bản thân chúng ta, chúng ta phải biết là tên chỉ huy đã nói
những gì".

- Đối với riêng tôi, tôi không còn muốn dính líu gì với đồ chó
má này nữa!

- Tôi nghĩ đó là ta đi quá xa rồi. Chúng ta không thể tự cho
phép mình làm ngơ những điều mà tên chỉ huy đã nói.

Cochrane nhún vai. Những sự thiếu thốn, đói khát đã làm cho ông
trở nên hay bực bội. Ông phải cắn môi lại để kìm lại một câu trả
lời chua chát. Ông đi xa ra một cách thong thả.

- Tôi thấy rằng hắn có vẻ dễ chịu hơn trước đôi chút. Hắn nói
rằng khi nào còn có nước thì các vị sẽ có phần của các vị, nhưng
nước đã không có nhiều. Hắn cũng nói rằng ngày mai chúng ta sẽ
tới các giếng nước ở Selimah, và rằng mọi người sẽ có nhiều nước
để uống,

kể cả những con lạc đà.

- Hắn không nói rõ với anh là chúng ta sẽ ở lại nơi này bao lâu
à?

- Một sự nghỉ chân rất ngắn, hắn nói với tôi, rồi sau đó lại lên
đường! Ồ, ông Belmont!...

"Im lặng!" anh chàng người Ái Nhĩ Lan càu nhàu nói. Belmont lại
bắt đầu tính toán những thời hạn và những khoảng cách. Nếu tất
cả mọi việc đều diễn ra như đã dự trù, nếu bà vợ ông đã rũ sạch
được sự biếng nhát của viên thuyền trưởng để cho sự báo động
được ban hành ở Ouadi-Haffa, thì những người truy lùng đã được
tung ra theo dấu vết của bọn họ. Đạo quân cưỡi lạc đà hay đoàn
kỵ binh Ai Cập di chuyển tốt và nhanh dưới ánh trăng hơn là dưới
ánh sáng mặt trời. Ông biết rằng ở Ouadi-halfa người ta có tục
lệ là lúc nào cũng giữ ít nhất một nửa trung đội kỵ binh trong
tình trạng báo động. Ông đã ăn uống thâu đêm suốt sáng ở câu lạc
bộ, và các sĩ quan đã giảng giải cho ông biết cách thức mà bán
trung đội ky binh này trong trường hợp khẩn cấp có thể đánh
xuyên thẳng ngay tức thì. Họ đã chỉ cho ông thấy những nơi dự
trữ nước, thức ăn làm sẵn ở bên cạnh mỗi con vật và ông đã cảm
phục sự chu đáo dành cho các việc chuẩn bị này mà không lúc nào
nghĩ rằng ông sẽ có thể cần tới chúng. Muốn cho cả một đội đến
trú cùng di chuyển thì phải tính tới một giờ sớm sủa. Có thể là
sáng ngày hôm sau...

Những sự suy tư của ông bị cắt ngang một cách thê thảm, vùng vẫy
như một thằng điên, ông đại tá xuất hiện trên đỉnh một cồn cát ở
gần nhất, với một tên Ả Rập đeo cứng ở mỗi cổ tay ông. Mặt ông
đỏ bừng vì giận giữ và lo sợ.

"Lũ sát nhân khốn kiếp!" ông la lớn. "Belmont ơi, chúng đã giết
chết Cecil Brown rồi!"

Đây là sự việc đã xảy ra. Trong con tức giận, ông đại tá đã đi
tới ngọn đồi gần nhất, trong thung lũng nhỏ ông chợt nhìn thấy
một toán lạc đà và nhiều người đang tức giận nói lớn tiếng.
Brown đang đứng ở giữa đám chiến binh; ông xanh mét, có một cái
nhìn nặng nề, nhưng lúc nào ông cũng xoắn bộ ria mép và ông giả
bộ ra một tư thế lơ là. Ông đã bị lục soát, nhưng bây giờ chúng
có vẻ quyết định lột hết quần áo của ông với hy vọng tìm ra một
vật gì mà ông còn dấu diếm. Một tên da đen xấu xí với những
chiếc khoen đeo tai, nhăn mặt một cách giận dữ trước vẻ mặt bất
động của nhà ngoại giao trẻ. Trong thâm tâm của mình, ông đại tá
cho sự trầm tĩnh không thể lay chuyển được này là phi nhân tính
và anh hùng. Quần áo của Cecil Brown đã bị cởi hết cúc, cái bàn
tay kếch xù của tên da đen bay tới cổ ông ta và xé tung áo sơ mi
của ông cho tới thắt lưng. Nghe tiếng rách soạt này và thấy sự
đụng chạm của những ngón tay thô kệch đó, người thị dân này, cái
sản phẩm hoàn thiện của thế kỷ thứ mười chín bèn đoạn tuyệt ngay
với các nguyên tắc của ông: ông trở thành một tên man rợ trước
mặt một tên man rợ khác. Mặt ông đỏ bừng, môi ông mím lại, răng
ông nghiến kèn kẹt, mắt ông đỏ ngầu. Ông chồm lên tên da đen và
đánh vào mắt y nhiều lần. Ông đánh như một cô con gái, cánh tay
tròn trĩnh và bàn tay xòe ra. Thoạt đầu bị hoảng sợ vì cơn điên
dại bất chợt đó, tên da đen lùi lại, rốt hắn bật ra một tiếng
cười gằn, rút một con dao từ ống tay áo thùng thình của hắn ra
và phạt từ dưới lên trên dưới cái cánh tay đang quay cuồng.
Brown ngã người xuống và bắt đầu ho, ông ho như một người bị
nghẹn trong bữa ăn, hết cơn này tới cơn khác, không thể ngừng
được. Cặp má của ông mà sự phẫn nộ đã làm đỏ ửng đã dần dần phủ
màu tái nhợt của chết chóc. Cổ họng ông để lọt ra vài tiếng
"ong-óc". Ông đặt một bàn tay lên miệng và nằm lăn xuống. Tên da
đen phát ra một tiếng gầm gừ khinh bỉ và nhét con dao vào tay áo
trong lúc ông đại tá điên cuồng trong cơn thịnh nộ bất lực đã để
cho lũ người đứng xem nắm lấy và dẫn trở lại chỗ các bạn đồng
hành đang hoang mang của ông. Chúng trói tay ông lại và ông ngồi
gần bên vị mục sư bất cần ước lệ lúc nào cũng mê sảng.

Như vậy là Headingly đã chết, và Cecil Brown cũng đã chết. Những
người sống sót nhìn nhau với những con mắt đờ đẫn, như thể cố
sức dò tìm những quyết định của số phận và tiên đoán xem người
nào trong bọn họ sẽ là nạn nhân sắp tới. Trong mười du khách thì
hai người đã chết và một người điên. Nhất định là những ngày
nghỉ của họ đã kết thúc rất tệ.

Fardet, anh chàng người Pháp ngồi riêng một mình. Ông tì cằm
trên hai bàn tay và những khuỷu tay trên đầu gối ông đang ngắm
nhìn bãi sa mạc. Đột nhiên Belmont nhìn thấy ông ta giật nảy
người và dỏng tai lên như một con chó nghe thấy tiếng bước chân
của một kẻ lạ, Rồi, đan những ngón tay vào nhau, Farđet khom
mình về phía trước và mắt nhìn ngấu nghiến những ngọn đồi đen xì
ở mạn Đông mà họ vừa vượt qua, Belmont trông theo hướng nhìn của
ông ta, và... Đúng, đúng! một vật gì đang động đậy ở phía đó ?
Kim loại lóng lánh, một cái áo trắng bay phấp phới, một tên thầy
tu Hồi giáo đi tuần tra bên hông doanh trại quay con lạc đà của
hắn trở lại hai lần ra hiệu báo động, rồi bắn một phát súng chỉ
thiên. Trống vang của phát súng chưa tắt lịm hẳn mà tất cả những
tên Ả Rập và tất cả những tên da đen đều đã nhảy lên yên và thúc
những con lạc đà đứng dậy, chúng thong thả đi về phía mà lệnh
báo động đã được phát ra. Nhiều người có võ trang vây quanh các
tù nhân, không quên lắp những bì đạn vào những khẩu súng trường
của chúng để khuyên họ hãy đứng yên.

"Lạy trời, đó là những người cưỡi trên lưng lạc đà!" Cochrane
kêu lên, trong ông tất cả mọi ưu lo đều tan biến. "Chắc chắn là
những người của chúng ta!"

Trong sự hoang mang đều khắp, ông đã tự cởi trói cho hai bàn
tay.

"Tôi không tin rằng họ lại nhanh chóng đến như thế" Belmont lẩm
bẩm nói, hai mắt ông sáng rực lên. "Tôi không trông đợi họ ít
nhất là trước hai hay ba giờ. Hoan hô ông Fardet, như thế tốt
hơn, phải không ?"

"Hoan hô! Hoan hô! Tốt một cách kỳ diệu! người Anh muôn năm!
người Anh muôn năm!" anh chàng người Pháp kêu to, toàn thân bị
kích động.

Một đoàn lạc đà từ trong các núi đá mà ra.

"nghe đây, Belmont" ông đại tá nói lớn, "Chắc chắn là lũ kẻ cắp
này sẽ muốn hạ sát chúng ta nếu công việc của chúng không trôi
chảy. Tôi biết phong tục của chúng, và chúng ta phải chuẩn bị
sẵn sàng. Ông có muốn nhảy tới tấn công thằng chột mắt không?
Tôi, tôi sẽ bắt thằng da đen cao lớn, nếu hai cánh tay tôi có
thể ôm vòng thân mình nó. Stephens, ông sẽ làm việc gì ông có
thể làm được. Còn ông, Fardet, ông đã hiểu lời tôi nói chứ? Phải
hoàn toàn đặt những tên cướp này ra ngoài tình trạng làm hại
chúng ta trước khi chúng có thể làm tổn thương chúng ta. Còn
anh, anh thông ngôn, hãy nói cho hai người lính Soudan biết...
nhưng, nhưng... "

Giọng ông trảm xuống, ông nuốt nước miếng.

" Đó là những tên Ả Rập" ông nói.

Và không ai nhận ra giọng nói của ông nữa.

Trong tất cả cái ngày khủng khiếp này, đây là lúc khủng khiếp
nhất. Ông Stuart, con người vui vẻ, nằm dài trên những hòn đá
sỏi, tựa lưng vào hông con lạc đà của ông và ông nín những tiếng
cười nhỏ mỗi khi các tế bào bên trong người ông bận rộn một cách
vui vẻ để tái lập trật tự trong thân thể ông. Bộ mặt hồng hào,
tươi tắn của ông toát ra vẻ thánh thiện nhưng với những người
khác sự tuyệt vọng thật vô cùng! những người đàn bà oà lên khóc
thổn thức, những người đàn ông thì núp náu trong một sự yên lặng
còn tệ hơn là khóc lóc. Ông Fardet thì khổ sở vì những cơn nấc
cụt, ngã sụm xuống, mặt úp xuống đất.

Bọn Ả Rập bắn súng chỉ thiên để chúc mừng sự may mắn cho các bạn
của chúng. Bọn này phi lạc đà chạy trên cánh đồng trống, đáp lại
bằng những loạt súng và vung vẩy những cây giáo của chúng. Cái
toán mới này không đông bằng toán thứ nhất; nó không có tới quá
ba mươi ky binh, chúng mang cùng một thứ khăn đỏ và những chiếc
áo chắp nối nhiều mảnh. Một tên trong bọn chúng vác một lá cờ
trắng nhỏ có trang hoàng một bản văn thêu màu đỏ. Nhưng sự chú
tâm của các du khách, bất thần bị lôi cuốn bởi một vật khác.
Lòng họ có cùng một điều lo sợ như nhau, cùng một sự xung động
đã chế ngự sự im lặng. Ở giữa đám chiến binh của sa mạc một bóng
trắng lảo đảo trên một con lạc đà.

"Chúng có ai đi với chúng vậy?" cuối cùng Stephens nói lớn. "Hãy
nhìn kìa, cô Adams! Ta phải nói đó là một phụ nữ!".

Quả thực một hình dáng người hình như được đặt trên một con lạc
đà, nhưng khó mà đặt cho hình dáng đó một cái tên. Khi hai toán
người gập nhau, những kỵ binh tan hàng. Lúc đó thì các tù nhân
mới hiểu.

- Đó là một người đàn bà da trắng!

- Tàu thủy đã bị tấn công.

Belmont thốt ra một tiếng kêu như xé rách màn đêm. Ông gào lên,


- Norah, em yêu của tôi! Chớ để mất lòng can đảm! Tôi ở đây và
mọi sự đều tốt đẹp.

Hãy cảm ơn bài viết của donka bằng cách bấm vào "" ở bên dưới nhé!!!

Về Đầu Trang Go down

https://dlthanh.forumvi.com

donka
donka

//dondonitt

Tổng số bài gửi : 143
Points : 425
Reputation : 25
Join date : 06/06/2011

Bài gửiTiêu đề: Re: Tấn Thảm Kịch Của Tàu korosko Tấn Thảm Kịch Của Tàu korosko Icon_minitimeThu Jun 09, 2011 10:58 am

Chương 6:

Thế là tàu Korosko đã bị tấn công và chiếm đoạt; do đó những cơ
may giải cứu mà họ tính toán (tất cả những con toán phức tạp về
giờ giấc và khoảng cách) cũng tỏ ra hư huyễn như một ảo ảnh. Sự
báo động sẽ không được loan ra ở Ouadi-halfa trước khi các nhà
chức trách thấy rằng con tàu đã không trở về trong buổi tối. Vậy
thì vào giờ này của buổi hoàng hôn khi mà sông Nil chỉ còn là
một cái dải mỏng màu xanh dương ở rất xa đằng sau họ, chắc chắn
là sự truy lùng chưa khởi sự. Và chỉ một trăm năm mươi cây số
nữa thôi. có thể còn ít hơn nữa. đã chia cách họ với xứ sở của
bọn thầy tu Hồi giáo. Hầu như không còn chút hy vọng nào là các
lực lượng Ai Cập kịp thời gặp được họ. Khi đó một sự chán nản âm
thầm, ảm đạm đã chiếm ngự các tù nhân, ngoại trừ Belmont mà bọn
Ả Rập phải kiềm chế vì ông muốn chạy tới cứu vợ.

Hai đôi quân đã nhập lại với nhau. Lũ Ả Rập trao đổi những lời
chào và lời tán tụng một cách nghiêm trọng và oai vệ, trong khi
bọn da đen cười, la lối. nói huyên thuyên với sự vui tính hồn
nhiên mà kinh Coran đã bất lực không cải tạo được. Tên chỉ huy
của bọn mới tới là một ông già mũi to, khoằm và có chòm râu bạc.
hình dáng gầy gò. khổ hạnh, thô lỗ, hung bạo, điệu bộ rất võ
biền. Anh thông ngôn rên rỉ khi nhận ra ông ta. Y giơ hai tay
lên trời và lắc đầu, rõ ràng là y đã phát hiện ra một viễn cảnh
mới của những sự bực bội.

"Đó là tù trưởng Abderrahman" y nói. "Bây giờ thì tôi sợ rằng
khi tới Khartoum chúng ta không còn sống nữa!"

Chỉ có một mình đai tá Cochrane là biết hắn qua lời đồn đãi: hắn
nổi tiếng là một con quái vật của sự tàn ác và cuồng tin. là một
tên hồi giáo khùng điên, là một nhà truyền giáo và một chiến sĩ
không bao giờ ngần ngại khi áp dụng những chủ thuyết hung tàn
của kinh

Coran cho tới chung cuộc của chúng... Lão khởi đầu bằng việc
chuyện trò với tù trưởng Wad Ibrahlm, những con lạc đà của chúng
đứng sát vào nhau. Chòm râu đen hòa lẫn với chòm râu bạc. Rồi cả
hai tên cùng quay nhìn về phía toán tù nhân khốn khổ. Tên đàn em
cung cấp rất nhiều lời giảng giải cho tên lớn tuổi, tên này lắng
nghe, vẻ nghiêm trọng và không mảy may xúc động.

"Cái ông già có bộ râu trắng là ai vậy?" Cô Adams hỏi, cô là
người đầu tiên đã trấn tĩnh lại sau cơn thất vọng. "Ông ta có
dáng điệu rất phi phàm".

"Đó là tên chỉ huy mới" Cochrane đáp.

- Ông không muốn nói là hắn có cấp bậc cao hơn tên kia chứ?

-"Có thưa cô" anh thông ngôn nói "Hiện nay hắn là vị chỉ huy tối
cao"

- Được như thế càng tốt! Hắn làm tôi nhớ tới ông già Mathews của
giáo hội trưởng lão vào thời mục sư Scott. Cái lão chỉ huy có bộ
râu đen và cái nhìn sáng rực như than hồng không nói với tôi một
điều gì có giá trị cả. Sadie này, cháu cưng của cô. cháu cảm
thấy dễ chịu hơn với sự mát mẻ phải không?

- Vâng thưa cô. Xin cô chớ bận tâm tới chuyện của cháu, chính
cô, thì cô cảm thấy thế nào?

-Thực ra cô nhiều tin tưởng hơn lúc nãy. Cô đã cho cháu một tấm
gương xấu Sadie ạ, cô đã bị hoàn toàn choáng váng bởi sự đột
ngột của tất cả cuộc phiêu lưu này, rồi cô nghĩ tới mẹ cháu. Bà
ấy đã giao phó cháu cho cô và cô tự hỏi bà ấy nghĩ thế nào khi
nhìn thấy cả

hai cô cháu mình. Cô nghĩ là sẽ có một vài tiêu đề đặt bên trên
trong tờ Boston Herald! Và cô đánh cá rằng một người nào đó sẽ
phải viết những bài tường thuật!

-"Ông Stuart đáng thương" Sadie kêu lên khi lại nghe thấy cơn mê
sảng đơn điệu của ông mục sư. "Cô ơi. lại đây! Thử xem chúng ta
có thể làm được điều gì cho ông ấy không".

"Tôi lo sợ về chuyện của bà Shlesmger và đứa con của bà ấy" đại
tá Cochrane nói "Ông Belmont này. tôi nhìn thấy rõ bà vợ ông,
nhưng không nhìn thấy ai khác nữa".

Chúng dẩn bà ấy tới đây". Belmont kêu lên. "Cám ơn Thượng đế!
Chúng ta sẽ biết hết mọi chuyện. Norah, chúng đã không làm tổn
hại mình chứ, tôi hy vọng...?"

Ông chạy tới chỗ bà vợ, và hôn bàn tay bà chìa ra để ông đỡ bà,
từ trên lưng lạc đà xuống.

Cặp mắt xám hiền hậu và bộ mặt dịu dàng, trầm tĩnh của người đàn
bà Ái Nhĩ Lan mang lại đôi chút khuây khỏa và hy vọng cho các tù
nhân. Đây là một người phụ nữ công giáo thuần thành; mà tôn giáo
của Giáo hội La Mã là một sự trợ lực tuyệt hảo trong giờ phút
hiểm nghèo. Với bà, với ông đại tá là người theo Anh quốc giáo,
với ông mục sư không theo nghi thức, với những phụ nữ Mỹ theo
phái trưởng lão, và ngay cả với hai người Soudan ngoan đạo, dưới
những phương diện khác nhau của nó, tôn giáo đã làm cùng một
nhiệm vụ: nó không ngừng nhắc nhở rằng điều xấu xa mà con người
có thể gây ra là điều rất nhỏ nhặt, và rằng bất kể sự khắc
nghiệt bề ngoài, trên những con đường của Chúa, chúng ta không
có điều gì tốt và khôn ngoan để làm hơn là cứ tự để cho cái Bàn
Tay Vĩ đai dẫn dắt chúng ta. Những người bạn trong hoạn nạn này
không có cùng chung một giáo

điều. Nhưng họ có lòng dũng cảm sâu đậm và lòng tin số mạng an-
nhiên, cần thiết là những thứ đã tạo ra cái khuôn khổ cổ xưa của
tôn giáo, những giáo điều mới đã mọc lên như loài rêu phù du
trên mặt tảng đá hoa cương.

"Các ban khốn khổ! " người phụ nữ ái Nhĩ Lan nói lớn "tôi thấy
rằng các bạn đã chịu khổ hơn tôi rất nhiều. Thật vậy đó anh John
yêu quý ạ, tôi hoàn toàn khỏe mạnh mà ngay cả tôi không bị khát
nữa, vì trên chúng tôi đã đổ đầy nước vào các túi da ở sông Nil,
và tôi đã uống thỏa thuê theo ý thích. Nhưng tôi không trông
thấy ông Headingly, cả ông Brown nữa. Và ông Stuart khốn khổ!
ông ấy ra thế nào rồi?

"Headingly và Brown không còn biết ưu phiền nữa", ông chồng bà
trả lời. "Norah này, mình không biết rằng hôm nay chúng tôi đã
tạ ơn Thượng đế bao nhiêu lần về việc mình đã không cùng đi với
chúng tôi! Vậy mà mình cung lại ở đây!"

-Tôi sẽ ở nơi nào tốt hơn là ở bên cạnh chồng tôi? Tôi thích một
trăm lần, một ngàn lần ở đây hơn là được an toàn ở Ouadl-halfa.


-Thành phố có được báo động không?" ông đại tá hỏi.

- Một cái ca nô đã trốn thoát được. Bà Shlesinger, con bà ấy và
người vú nuôi đã ngồi trên ca nô đó. Khi bọn Ả Rập tấn công
chúng tôi thì tôi ở bên dưới. Những người ở trên boong đã có thì
giờ nhảy lên ca nô. Tôi không biết họ có bị thương không vì bọn
Ả Rập đã bắn

theo trong một lúc lâu.

"Thật vậy à?" Belmont kêu lên "như thế đoàn quân trú phòng phải
nghe thấy tiếng súng bắn, ông nghĩ thế nào. ông Cochrane? Từ bốn
giờ rồi họ phải được tung ra trên con đường của chúng ta! Từng
phút một chúng ta có thể hy vọng trông thấy xuất hiện trên đỉnh
đồi kia cái mũ cứng của một sĩ quan Anh!

Nhưng những sự thất vọng liên tiếp đã làm cho ông đại tá thành
hoài nghi.

"Nếu họ không tới với lực lượng mạnh" ông đáp, " thì tốt hơn là
họ đừng tới nữa. Bọn kẻ cướp này là những tên lính tinh nhuê và
những tên chỉ huy giỏi, và trên chính địa thế của chúng, chúng
sẽ kháng cự kịch liệt... "

Đột nhiên ông ngừng lại và nhìn về phía bọn Ả Rập. "...Lạy Chúa
tôi!" ông lẩm bẩm nói. "Cái cảnh này rất đáng xem!"

Mặt trời to lớn, đỏ rực đã dấu một nửa cái đĩa của nó đằng sau
đám sương mù tím lịm ở chân trời. Lúc này là giờ cầu nguyện của
người Ả Rập. Một nền văn minh cổ đại hơn và thông thái hơn phải
quay về hướng chân trời huy hoàng này và thờ phụng nó, nhưng
những đứa con mọi rợ của sa mạc vốn có một tính chất cao quí hơn
những người Ba Tư phong nhã, họ đặt tinh thần cao hơn vật chất.
Vì vậy họ cầu kinh trong khi quay lưng về phía mặt trời và hướng
mặt họ về phía ngôi đền chính của tôn giáo họ. Đó là cách họ cầu
nguyện, những kẻ cuồng tín đó! Say sưa một cách sâu xa, với
những cặp mắt long lanh và nét mặt rạng rỡ họ đứng lên, quì
xuống, trán họ chạm vào tấm thảm để cầu kinh. Khi nhìn thấy một
sự sùng kính như thế, ai còn dám nghi ngờ sự hiện hữu của một
thế lực lớn lao trên toàn thế giới, phản động nhưng khủng khiếp,
có sẵn trong tay hàng trăm triệu đứa con ở giữa mũi Juby và
những ranh giới của nước Trung Hoa? Nếu một ngày nào cùng một
luồng gió đó đốt cháy họ, nếu một binh gia vĩ đại hay một nhà
cai trị vĩ đại đứng lên để tổ chức họ, họ sẽ chẳng phải là khí
cụ mà Đấng tối cao quét sạch miền Nam Châu Âu, nơi đã suy tàn,
thối nât, ích kỷ, không có dũng khí, như chuyện đã xảy ra một
ngàn hai trăm năm trước, để dọn chỗ sạch sẻ cho một chủng tộc
tốt đẹp hơn.

Khi họ đứng dậy, một hồi tù và vang lên; lúc đó các tù nhân hiểu
rằng sau khi đã đi suốt cả ngày, họ sẽ phải đi suốt cả đêm.
Belmont càu nhàu, vì ông đã hy vọng là những người giải cứu sẽ
theo kịp họ trước lúc nhổ trại, nhưng những người khác thì đều
đã quá sẵn sàng, để tuân theo sự không thể tránh được. Họ nhận
được mỗi người một cái bánh dẹp của dân Ả Rập, rồi để làm tăng
thêm phần sảng khoái, một chén nước thứ hai lấy từ những túi da
của toán quân thứ nhì. Nếu xác thịt biết tuân lệnh của linh hồn
một cách cũng dễ dàng như linh hồn tuân lệnh xác thịt thì trái
đất đã là một thiên đường rồi! một khi các nhu cầu về thể chất
đã được thỏa mãn, họ lấy lại can đảm và lại leo lên lưng những
con lạc đà trong khi chấp nhận một cách độ lượng hơn cái khía
cạnh lãng mạn của cuộc phiêu lưu khủng khiếp của họ. Ông Stuart
cứ đeo đuổi những lời lảm nhảm trẻ con trên bãi cát ngay cả bọn
Ả Rập cũng không nghĩ tới việc đặt ông ngồi lại trên yên lạc đà.
Trong bóng đêm đang đổ xuống, bộ mặt to phì của ông ngẩng lên
trời làm thành một vệt trắng.

"Anh thông ngôn!" ông đại tá quát lớn. "Nói với chúng là chúng
bỏ quên ông Stuart".

"Thưa ông vô ích thôi!" Mansoor đáp lại. "Họ nói rằng ông ấy mập
quá, và họ không đem ông ấy đi xa hơn nữa. Họ nói là ông ấy sắp
chết rồi, như thế bận tâm tới ông ấy có ích gì?".

Cochrane la lớn:

- Không đem ông ấy đi! Thế nào! nhưng ông ấy sẽ chết đói và chết
khát! ông tù trưởng đâu?...

Ông gọi lão Ả Rập có bộ râu đen với cái giọng mà ông đã dùng để
quở mắng một tên dắt lừa đến trễ. Tên chỉ huy không thèm trả lời
ông, nhưng hắn nói hai hay ba tiếng với một trong những tên
chiến binh, và tên này đánh vào mạng sườn ông đại tá một nhát
báng súng. Người lính già ngã xấp xuống rồi được nâng lên yên
lạc đà, gần như bất động. Những người đàn bà lại bắt đầu khóc;
những người đàn ông thì lủng bủng những câu nguyền rủa và xiết
chặt những nắm tay, họ có thể làm được việc gì trong cái địa
ngục của sự bất công và những cách đối xử tàn tệ này? Belmont
tìm khẩu súng lục nhỏ của ông, nhưng ông nhớ ra là óng đã giao
nó cho cô Adams. Nếu ông còn giữ nó thì tên tù trưởng đã bị hạ
sát rồi, nhưng tất cả các du khách đều sẽ bị tàn sát hết.

Khi tiếp tục lên đường, họ thấy hiện ra trước mặt họ một trong
những hiện tượng hy hữu nhất của sa mạc Ai Cập; đúng thực là các
tình huống đã làm cho họ chẳng còn bụng dạ nào để thưởng thức
cái đẹp. Khi mặt trời đã biến dạng, chân trời còn giữ lại một
sắc tím như màu đá đen, nhưng bây giờ thì màn sương mù đó mỗi
lúc mỗi trở thành sáng sủa, một bình minh giả hiệu hiện lên. Họ
có thể cho là một vừng mặt trời đang lúng liếng mọc trở lại
trong bầu trời theo con đường mà nó vừa lặn xuống. Một tấm màn
màu hồng lơ lửng bên trên phía Tây đã trang hoàng cho cái rìa
phía trên của nó bằng những ánh phản quang có màu xanh tươi mát
và trang nhã, nhưng các màu sắc đó đã từ từ hòa tan vào một màu
xám mờ mờ khởi đầu cho màn đêm. Trước đây hai mươi bốn giờ, ngồi
trên những cái ghế dài hoặc những cái ghế đẩu, họ bàn luận về
chính trị trên boong tàu Korosko, dưới ánh sáng những ngôi sao
Mười hai giờ trước đây, họ ăn điểm tâm trước khi khởi hành cho
cuộc du ngoạn cuối cùng của họ. Rồi từ lúc đó, họ đã khám phá ra
cả một thế giới của những cảm giác mới lạ. Họ đã bị xô xuống từ
đỉnh cao của sự sung túc với sự phũ phàng làm sao! Cũng là những
ngôi sao bạc này, cũng là mảnh trăng lưỡi liềm này, nhưng giữa
quá khứ và hiện tại đã có một hố sâu làm sao! Những con lạc đà
cũng di chuyển lặng lẽ như những bóng ma vậy. Phía trước các tù
nhân, phía sau họ những tên Ả Rập cũng không gây ồn ào nhiều hơn
là những con vật chúng cưỡi. Không chỗ nào có một tiếng ồn.
Không một chút tiếng ồn. Rồi thình lình từ rất xa về, phía sau,
một tiếng người cất lên trong sa mạc, một tiếng mạnh, vo vo,
không theo nhạc điệu mấy ti, dần dà một điệp khúc toát ra từ
trong tiếng hát xa xăm ấy, các tù nhân có thể phân biệt ra trong
điệp khúc ấy những câu:

"Ban đêm chúng ta dựng cái lều di động của chúng ta,

Chưa tới một ngày trước lúc trở về của chúng ta... "

Ông Stuart đã hồi phục thần trí rồi, hoặc đây chỉ là sự ngẫu
nhlên trong cơn mê sảng mà ông đã chọn khúc ca này? Các bạn của
ông quay nhìn lại, mắt đẫm lệ, họ biết chắc rằng người lữ hành
này đã ở rất gần ngày trở về rồi... Tiếng hát dần dà thấp giọng
xuống, nó chấm dứt bằng cách chìm ngập trong cái im lặng bao la
của sa mạc.

"Ông bạn già thân mến, tôi hy vọng là ông không bị thương chứ?"
Belmont vừa hỏi vừa đặt một bàn tay lên đầu gối ông đại tá.

Cochrane ngồi dậy, nhưng ông còn thở hổn hển.

- Tôi hoàn toàn bình phục rồi. Xin ông vui lòng chỉ cho tôi thấy
kẻ nào đã đánh tôi?

- Tên ăn cướp đứng trước mặt ông, tên mà con lạc đà của nó đứng
ngang tầm con lạc đà của Fardet đó.

- Tên thanh niên với bộ ria mép... Với ánh sáng này tôi không
phân biệt được nó rõ ràng, nhưng tôi tin rằng tôi sẽ nhận ra nó
lúc ban ngày. Cám ơn Belmont!

- Tôi nghĩ rằng nó đã đâm gãy xương sườn của ông.

- Không, nó đã cắt đứt hơi thở của tôi, tất cả cơ thể.

- Người ông chắc phải bằng sắt! Đó là một đòn khủng khiếp. Làm
thế nào mà ông có thể hồi phục nhanh quá như vậy?

Ông đại tá gãi cổ và nói hơi lúng búng khi trả lời.

- Ông bạn Belmont thân mến, sự thật là... Tôi tin chắc rằng việc
này sẽ chỉ có hai chúng ta biết... nhất là đừng nhắc lại việc đó
với các đàn bà!... Nhưng tôi có đôi chút già hơn điều mà tôi
nhìn nhận, và thà rằng để mất phong thái quân cách là thứ lúc
nào cũng quí giá với tôi, tôi...

"Ông mặc áo nịt ngực à, lạy Chúa tôi!" anh chàng người Ái Nhĩ
Lan kêu lên.

"Thật tình, đó là một sự hỗ trợ nhân tạo!" ông đại tá nói một
cách khô khan, và ông lái cuộc đàm thoại sang các sự may rủi của
ngày hôm sau. "

Những người còn sống sót còn nhìn thấy trong những giấc mơ của
họ cái đêm dài phải đi trong sa mạc ấy. Hơn nữa tất cả đều là
một thứ mộng mơ: sự im lặng mà họ thấy trên những cái chân có
sức đàn hồi của lũ lạc đà, và những cái bóng lờ mờ, chuyển động
đang lắc lư ở bên trái và ở bên phải họ. Vũ trụ hình như được
treo lơ lửng trước mặt họ như một cái mặt đồng hồ khổng lồ. Một
ngôi sao lấp lánh ngay tại cuối con đường của họ. Thời gian mà
họ nhắm mắt lại, và lại mở mắt ra, một ngôi sao khác đã sáng rực
lên bên dưới ngôi sao trước. Giờ này sang giờ khác, làn nước bao
la của các vì sao vẫn trôi đi một cách chậm chạp trên cái nền
màu xanh dương của trời đêm, những thế giới và những hệ thống
thiên thể trôi giạt một cách uy nghi bên trên đầu họ, để làm đầy
vòm trời mà sự hoành tráng đã an ủi một cách mơ hồ những người
bị bắt, nhất là số phận riêng của họ và bản thân con người của
họ hình như quá nhỏ nhoi bên cạnh một sự triển khai các uy lực
như vậy, muốn diễn hành trên bầu trời, đám rước lớn của các tinh
tú phải bắt đầu bằng việc leo lên nó, rồi đứng lại gần như bất
động theo hàng dọc, và cuối cùng thì tụt xuống một cách không
vội vã cho tới lúc về mạn đông hiện ra ánh sáng lạnh lẽo, đầu
tiên, và khi các tù nhân bị sững sờ vì những gì mà nó làm cho họ
thấy ở những bộ mặt của họ.

Ban ngày đã hành hạ họ bằng sự nóng bức, ban đêm đem lại cho họ
một cái lạnh còn khó chịu đựng hơn. Bọn Ả Rập cuộn mình trong
những cái chăn và trùm khăn lên đầu. Các tù nhân thì lạnh run
lên, xoa tay vào nhau để làm cho người ấm lên. Cô Adams là người
khổ sở nhất vì sự gầy còm và sự huyết mạch lưu thông xấu do tuổi
tác của cô. Stephens cởi cái áo choàng của ông ra và khoác lên
vai cô. Ông đi bên cạnh Sadie, miệng huýt sáo và lẩm nhẩm hát để
làm cho cô nghĩ là bà cô của cô đã làm cho ông nhẹ nhõm khi chấp
nhận việc mang hộ cái áo choàng của ông, nhưng ông đã gây quá
nhiều tiếng ồn khiến người ta khó mà tin được là ông không bị
rét lạnh. Tuy nhiên, thật tình thì ông cảm thấy đỡ lạnh hơn
những người khác, vì ngọn lửa xưa cũ đang đốt cháy trái tim ông,
và một niềm hân hoan kỳ dị hòa nhập lẫn lộn với những sự bất
hạnh của ông, ông không thể nói cuộc phiêu lưu này là sự tệ hại
nhất trong các điều tệ hại hay nó là một ân huệ lớn lao nhất của
đời ông. Khi ở trên tàu, sự trẻ trung của Sadie, nhan sắc của
nàng, sự thông minh của nàng và tính tình của nàng đã không cho
phép ông hy vọng điều gì hơn là một lòng khoan dung từ ái đối
với ông. Nhưng lúc này ông cảm thấy đối với nàng ông không phải
là vô dụng; ông biết rằng mỗi giờ mới tới đều thúc đẩy nàng phải
nhờ cậy vào ông nhiều hơn như người bảo vệ tự nhiên của nàng, và
nhất là (nhất là!) ông đã phát hiện ra nhân cách riêng của ông;
ông bắt đầu hiểu là đằng sau tất cả những tập quán của luật
pháp, những thứ đã tạo ra cho ông một bản chất giả tạo, một con
người mạnh mẽ và hoàn toàn đáng tin cậy đã hiện hữu thật sự. Một
tia sáng nhỏ về lòng tôn kính cá nhân đã làm máu ông nóng lại.
Thời trẻ trung, ông đã làm hư hỏng tuổi thanh xuân, nhưng lúc
này thì nó bùng lên như một bông hoa nở muộn.

"Ông Stephens ạ, đó là tôi tin rằng ông đang vui thích lắm!"
Sadie nói với ông bằng một giọng chua chát.

Ông trả lời.

-Tôi sẽ không đi tới chỗ khẳng định là tôi vui thích. Nhưng tôi
hoàn toàn tin chắc rằng tôi không muốn rời xa cô ở đây.

Ông chưa từng bao giờ dịu dàng như thế trong lời nói; cô thiếu
nữ nhìn ông, kinh ngạc.

-Tôi nghĩ rằng cho tới lúc này tôi đã là một người con gái rất
ác độc" nàng nói, sau một lúc im lặng. "Bởi vì chính bản thân
tôi được sung sướng, không bao giờ tôi nghĩ tới những người khốn
khổ. Cuộc phiêu lưu này làm cho tôi nhìn thấy các sự việc dưới
một ánh sáng khác. Nếu tôi thoát nạn, tôi sẽ hoàn hảo hơn trong
tương lai, đứng đắn hơn, chín chắn hơn".

- Và tôi cũng vậy, tôi sẽ hoàn hảo hơn. Tôi giả sử rằng chính vì
điều đó mà chúng ta phải trải qua cuộc phiêu lưu này. Hãy cho
như là nó đã làm nổi bật các đức tính của tất cả các bạn bè
chúng ta. Thí dụ hãy nói tới ông Stuart xấu số kia; đã có bao
giờ chúng ta nghi ngờ tâm hồn cao cả và chung thủy của ông đâu?
Và hãy nhìn Belmont và vợ ông ấy ở trước mặt chúng ta kìa, họ
nắm tay nhau tiến bước, không sợ sệt, người này chỉ nghĩ tới
người kia. Và Cochrane, người mà khi ở trên tàu lúc nào cũng cho
người khác cảm tưởng rằng ông ta có một tâm hồn hẹp hòi đểu
cáng! Hãy suy nghĩ về lòng dũng cảm và sự phẫn nộ vô tư lợi của
ông khi một người trong bọn chúng ta bị ngược đãi. Cả Fardet
cũng can đảm như một con sư tử. Tôi nghĩ là sự bất hạnh đã làm
điều tốt lành cho tất cả chúng ta.

Sadie thở dài.

- Phải, nếu mọi vịêc đều kết thúc tốt đẹp, thì ông nói đúng.
Nhưng nếu chúng ta phải chịu sự khổ cực nhiều tuần hay nhiều
tháng với cái chết ở một bên, tôi không biết chúng ta sẽ mót
nhặt lợi ích của sự tiến bộ của chúng ta ở đâu. Giả dụ rằng ông
rút tỉa được lợi ích từ đó, ông sẽ làm gì?

Ông luật sư ngần ngừ, nhưng các bản năng nghề nghiệp của ông vẫn
còn mạnh mẽ.

- Tôi sẽ xem có thể phát khởi quyền tố tụng được không, và kiện
ai. Rất có thể là, kiện những kẻ đứng ra tổ chức đã đưa chúng ta
tới núi Abousir. Nếu không thì phải kiện chính phủ Ai Cập về tội
không bảo đảm được an ninh ở biên giới của họ. Đây là một vấn đề
thú vị của luật pháp! Và cô Sadie, cô sẽ làm gì?

Đây là lần đầu tiên ông đã không dùng từ "Cô" trước tên người
con gái trẻ tuổi, nhưng nàng đang quá bận tâm nên không để ý tới
điều này.

Nàng nói:

- Tôi sẽ dịu dàng hơn với mọi người. Tôi sẽ cố gắng làm cho một
người nào đó được sung sướng để nhớ lại những nỗi cực khổ mà tôi
đã gánh chịu.

- Trong đời cô, cô đã không làm điều gì khác ngoài việc đem lại
sự sung sướng. Cô không thể tự ngăn cản được.

Bóng tối đã giúp cho ông ra khỏi sự dè dặt vốn là thói quen của
ông.

- Cô cần sự thử thách thô bạo này ít hơn bất cứ người nào khác,
làm thế nào để tính tình của cô có thể trở nên tốt như vậy?

- Đúng là ông ít biết về tôi! Tôi là người rất khinh xuất, rất
ích kỷ.

- Ít nhất là cô không cần tới tất cả những cảm xúc mạnh mẽ đó:
cô đã sinh động một cách đầy đủ rồi. Với tôi thì khác hẳn.

- Ông Stephens, tại sao ông lại cần có những cảm xúc?

- Bởi vì tất cả đều thích thú hơn là sự ngưng trệ. Ngay cả sự
đau khổ cũng tốt hơn là sự ngưng trệ. Tôi vừa mới bắt đầu sống,
cho tới lúc này tôi chỉ là một cái máy trên trái đất. Tôi chỉ có
một ý tưởng trong đầu, và một người chỉ có một ý tưởng trong đầu
không thực sự sống một chút nào. Đó là những gì mà tôi bắt đầu
hiểu trong tất cả những năm tháng này, tôi chưa bao giờ xúc động
cả. Chưa bao giờ một luồng cảm xúc chân thật của con người đã
động chạm tới tôi. Tôi không có thì giờ để cảm xúc. Tôi đã ghi
nhận những cảm xúc ở người khác, và tôi đã mơ hồ tự hỏi phải
chăng trong tôi đã có một khuyết điểm ngăn cản không cho tôi
được chia sẻ kinh nghiệm của các bạn trong đời. Nhưng những ngày
vừa qua đã nói cho tôi biết là tôi có thể sống một cách thật sự,
rằng tôi có thể có được những hy vọng nóng bỏng và những sự kinh
hoàng chí tử, rằng tôi có thể hận thù, và tôi có thể... Tóm lại
là tôi cô thể cảm nhận bất kỳ một tình cảm mạnh mẽ nào. Tôi được
sinh ra ở đời. Có thể ngày mai tôi sẽ đứng trên bờ huyệt mộ,
nhưng ít nhất tôi sẽ có thể tự nói với mình là tôi đã sống.

- Và tại sao ông lại sống cuộc sống này ở Anh Quốc?

- Tôi là con người có nhiều tham vọng. Tôi muốn thành đạt, và
tôi phải nghĩ tới mẹ tôi và các chị em tôi. Cám ơn Thượng đế,
trời đã sáng rồi. Trong chốc lát bà cô của cô và cô sẽ thôi
không thấy lạnh nữa.

- Và ông thì không có áo khoác ngoài!

- Ồ, bộ máy tuần hoàn của tôi thật tuyệt hảo! Tôi thấy rất dễ
chịu khi mặc sơ mi trần.

Cái đêm dài lạnh rét, làm hao tốn sức lực đã đi qua. Bầu trời
xanh đậm đã chuyển sang màu tím nhạt, những ngôi sao lớn nhất
vẫn tiếp tục chiếu sáng. Phía sau cái ngói sao này, cái vạch màu
xám của rạng đông đã bắt đầu gậm mòn bầu trời, đồng thời cũng tự
tô điểm cho mình một màu hồng thanh nhã trong đó đã lung linh
những tia sáng của vừng thái dương chưa xuất hiện. Bỗng chốc họ
cảm thấy sức nóng của mặt trời ở trên lưng họ, ở trên bãi cát,
những cái bóng dài đi trước họ, những thầy tu Hồi giáo bỏ những
cái chăn của họ ra và bắt đầu nói ba hoa vui vẻ với nhau. Các tù
nhân cũng bắt đầu hết cóng lạnh ngấu nghiến ăn những quả chà là
mà người ta phân phát làm món điểm tâm. Đoàn người dừng lại, họ
có quyền được mỗi người một chén nước.

"Tôi có thể nói chuyện với ông được không, đại tá Cochrane?" anh
chàng thông ngôn hỏi.

"Không!" ông đại tá nói càu nhàu.

- Nhưng là việc rất quan trọng! Có lẽ sự thoát hiểm của chúng ta
tùy thuộc vào nó.

Ông đại tâ chau mày lại, tay vuốt hàng ria mép. Cuối cùng ông
nói:

- Được, đó là việc gì?

- Ông phải tin tưởng ở tôi, vì tôi cũng muốn trở về Ai Cập như
ông! Một bên là vợ tôi, cái nhà của tôi, các con tôi, còn một
bên là kiếp sống nô lệ. Ông không có lý do nào để nghi ngờ tôi.


- Nói đi!

- Ông biết tên da đen đã nói chuyện với ông chứ? Cái tên đi với
Hlcks đó!

- Rồi sao nữa?

- Hắn đã nói chuyện với tôi hồi đêm. Tôi đã có một cuộc nói
chuyện dài với hắn. Hắn giải thích với tôi là ông không thể hiểu
rõ ràng lời hắn nói, và hắn cũng hiểu rất ít lời ông nói. Đó là
lý do tại sao hắn đến tìm tôi.

- Hắn đã nói gì với anh?

- Hắn nói với tôi là trong bọn Ả Rập có tám người lính Ai Cập,
sáu tên da đen và hai tên nông dân. Hắn nói với tôi là hắn muốn
có lời hứa của ông về một số tiền thưởng rất lớn nếu chúng giúp
cho ông trốn thoát.

- Đồng ý, chúng sẽ có tiền thưởng đó!

- Chúng yêu cầu tôi một trăm bảng Ai Cập cho mỗi người.

- Chúng sẽ có số tiền đó.

- Tôi đã nói với hắn là tôi sẽ đặt vấn đề này với ông nhưng
trước tiên tôi hãy trả lời về sự đồng ý của ông.

- Chúng có ý định làm không?

- Chúng còn chưa có thể hứa hẹn với tôi một điều gì cả nhưng
chúng nghĩ sẽ đánh những con lạc đà của chúng đi gần với nhóm
của ông, nhằm nắm lấy cơ hội đầu tiên khi nó xuất hiện.

- Được, quay lại gặp hắn đi và hứa với hắn hai trăm bảng cho mỗi
người nếu chúng giúp được chúng ta một cách hữu hiệu. Anh không
nghĩ rằng chúng ta có thể mua được vài tên Ả Rập à?

Mansoor lắc đầu. Hắn trả lời:

- Làm thế việc này sẽ quá nguy hiểm. Nếu ta làm thử và nếu ta
thất bại trong việc đó, thì đó sẽ là sự cáo chung của tất cả bọn
chúng ta, tôi sẽ chuyển câu trả lời của ông cho hắn.

Các tù trưởng dự kiến sẽ dừng chân tối đa là nửa giờ đồng hồ,
nhưng những con lạc đà có đóng yên chở các tù nhân thì nhọc mệt
quá khiến người ta không thể bắt chúng tiếp tục lên đường sau
một lúc nghỉ ngơi ngắn ngủi như thế. Chúng đã duỗi dài những cái
cổ to lớn của chúng lên bãi cát, đối với chúng hiện tượng này là
triệu chứng cuối cùng của sự mệt mỏi. Hai lão chỉ huy xem xét
chúng, lắc đầu, và lão già khủng khiếp quay bộ mặt gầy ốm của y
về phía các tù nhân. Y nói với Mansoor anh chàng thông ngôn tái
mặt đi khi nghe hắn nói.

- Tù trưởng Abderrahman nói rằng nếu các ông không cải theo Hồi
giáo, thì ông ấy sẽ không tốn công làm chậm trễ cuộc hành trình
của tất cả đoàn chỉ vì có các ông. Ông ấy nói nếu không có các
ông thì chúng tôi đã có thể đi nhanh hơn hai lần. Do đó ông ấy
muốn biết dứt khoát là các ông có sẽ chấp nhận kinh Coran.

Rồi, cùng một giọng nói đó, làm như hắn tiếp tục thông dịch, hắn
nói thêm:

-... Các ông sẽ làm được tốt hơn nhiều khi trả lời là có vì nếu
các ông từ chối nhất định ông ấy sẽ giết tất cả mọi người.

Những người tù bất hạnh nhìn nhau, hai tên tù trưởng quan sát họ
với vẻ nghiêm trọng.

Cochrane nói:

- Về phần tôi, tôi thích chết ở đây hơn là làm nô lệ ở Khartoum.


- Mình nói gì, Norah?

- John ạ, nếu chúng ta cùng chết với nhau, tôi nghĩ là tôi sẽ
không sợ.

"Thật là kỳ cục nếu tôi phải chết vì một cái gì mà tôi đã không
bao giờ tin tưởng" Farder tuyên bố. "Tuy nhiên danh dự của một
người Pháp ngăn cấm hắn không được cải đạo theo cách này..."

Ông đứng thẳng người lên, và đặt cái cổ tay bị thương của ông
lên mạn trước áo gi-lê. Ông kêu to:

- Tôi là người Cơ-đốc. Tôi vẫn là người Cơ-đốc, mỗi câu trong
hai câu này đều là một sự nói dối dũng cảm.

"Còn ông, ông Stephens?" Mansoor hỏi với một giọng cầu khẩn.
"Nếu một người trong bọn các ông chịu cải đạo, có lẽ họ sẽ khoan
nhượng hơn. Tôi thề với ông là chỉ làm những gì họ yêu cầu"

"Không, không thể được!" ông luật sư bình thản trả lời.

- Vậy còn cô, cô Sadie? cô nữa, cô Adams? các cô chỉ cần nói có
ngay tức thì, là các cô được thoát nạn

"Cô ơi, cô có nghĩ rằng chúng ta có thể nói có được không?" cô
thiếu nữ ấp úng nói. "Có phải đó là một điều rất tệ nếu chúng ta
nói từ ấy không?".

Cô gái già ôm lấy cô thiếu nữ trong vòng tay. Cô thì thầm nói:


- Không, không, cháu Sadie yêu quí của cô! Cháu sẽ dũng cảm! Sau
đó cháu sẽ tự oán hận mình rất nhiều! Hãy để nguyên bàn tay trên
người cô, cháu ngoan ạ, và hãy cầu nguyện đi nếu cháu cảm thấy
sự dũng cảm xa rời cháu. Đừng quên rằng người cô Eliza tuổi tác
của cháu lúc nào cũng sẽ dẫn dắt cháu trong bàn tay.

Họ không thiếu lòng dũng cảm, những tay tài tử về các thú vui
này! Tất cả mọi người đều nhìn thẳng vào cái chết và họ càng
trông thấy nó đến gần thì họ càng ít sợ hãi nó. Họ còn thấy một
cảm giác mơ hồ của sự hiếu kỳ, cũng như sự xốn xang của các dây
thần kinh của một con bệnh khi sắp ngồi vào cái ghế của nha sĩ.
Anh thông ngôn nhún hai tay và hai vai: anh đã cố gắng; và anh
đã thất bại. Tù trưởng Abderrahman ra một cái lệnh cho một tên
da đen, tên này chạy đi khỏi.

"Tại sao y lại đòi lấy những cái kéo?" ông đại tá hỏi.

"Y sẽ khảo đả các phụ nữ" Mansoor vừa trả lời, vừa phác họa cùng
một cử chỉ của sự bất lực như trước.

Sự kinh hoàng làm họ lạnh toát người. Cái chết trong trừu tượng
là một chuyện, nhưng các chi tiết quá cụ thể lại là một chuyện
khác. Tất cả bọn họ đều chấp nhận chịu đựng bất kỳ một điều gì,
mỗi người trong thân xác riêng của họ, nhưng họ còn ái ngại cho
nhau, những người đàn bà không nói gì cả, những người đàn ông
bắt đầu

cùng la hét.

"Khẩu súng lục, cô Adams!" Belmont nói "Đưa nó cho tôi! Chúng
tôi sẽ không chịu để cho cô bị tra tấn!"

"Mansoor, lễ tiền cho chúng đi! Hãy dâng cho chúng tất cả những
gì chúng muốn!" Stephens nói "Nghe đây, tôi sẽ cải đạo theo đạo
Hồi nếu chúng hứa là không đụng tới các phụ nữ. Tóm lại, một
trái vụ dưới sự cưỡng ép không có hiệu lực về mặt pháp luật.
Nhưng tôi không muốn thấy các phụ nữ bị tra tấn!"

"Không, hãy đợi một chút, Stephens!" ông đại tá nói. "Chúng ta
không nên mất đảm lực. Tôi tin rằng tôi đã thấp thoáng nhìn thấy
một cửa đi ra. Này anh thông ngôn, hãy nghe tôi nói đây: anh lại
nói với con quỉ già có bộ râu trắng kia rằng chúng tôi không
biết một chút gì về cái tôn giáo tạp pí lù của y. Hãy dịch câu
đó một cách dịu dàng. Nói cho y biết là y không thể chờ đợi ở
chúng tôi việc chúng tôi cải đạo trước khi chúng tôi biết đó là
trò bịp bợm gì. Nói với y rằng nếu y bằng lòng giảng dạy cho
chúng tôi thì chúng tôi sẽ tình nguyện nghe sự giáo huấn của y,
và anh sẽ có thể nói thêm là một tôn giáo đã sản sinh ra những
thứ chó má như y hoặc như thằng quỉ khác cô bộ râu đen kia, chắc
chắn đáng được bọn chúng ta chú ý"

Với sự trợ lực lớn của những cái khom lưng và những dáng điệu bộ
tịch, anh chàng thông ngôn giảng giải rằng những người cơ đốc đã
hoài nghi rồi, đã ở trên bờ của sự bội giáo, và chỉ cần một vài
tia sáng mới để họ quyết định từ bỏ tôn giáo của họ. Hai lão tù
trưởng vuốt râu với vẻ nghi ngờ. Rồi Abderrahman nói một vài
tiếng, và cả hai tên cùng đi khỏi, một lát sau đó, tiếng tù và
mới đoàn người tiếp tục lên đường.

"Đây là điều mà ông ta đã nói" Mansoor giảng giải với các tù
nhân. "Vào khoảng buổi trưa thì chúng ta sẽ tới những giếng
nước, và chúng ta sẽ dừng chân. Vị thầy giảng riêng của ông ta,
một người rất tử tế và rất thông thái sẽ tới giảng dạy cho các
quí vị một giờ về tôn giáo. Sau buổi học này, quí vị sẽ bày tỏ ý
kiến. Một khi quí vị đã có sự chọn lựa rồi, các tù trưởng sẽ
phán xét xem quí vị sẽ đi Khartoum, hoặc quí vị sẽ bị giết chết.
Đó là tiếng nói sau cùng của ông ta.

- Chúng không nhận tiền chuộc à?

- Chắc chắn là Wad Ibrahim sẽ nhận, nhưng tù trưởng Abderrahman
thì khủng khiếp. Tôi khuyên quí vị nên nhượng bộ ông ta.

- Chính bản thân anh, anh đã làm gì? Anh cũng là người theo đạo
Cơ đốc mà?

Mansoor đỏ mặt lên.

- Sáng hôm qua tôi là người cơ đốc. Không chừng sáng mai tôi sẽ
trở lại là người cơ đốc. Tôi phục vụ Chúa bao lâu mà những gì
Người đòi hỏi có vẻ phải chăng đối với tôi, nhưng lần này thì
rất khác.

Hắn thúc con lạc đà của hắn với một sự tự do trong điệu bộ để
chứng tỏ rằng cuộc đàm thoại của hắn đã tạo cho hắn một cấp bậc
riêng trong đám tù nhân.

Vậy là họ được hưởng một sự trì hoãn trong vài giờ, tuy nhiên
cái bóng đen của tử thần đang chụp lên đầu họ. Vậy thì có cái gì
trong cuộc sống mà chúng ta cứ phải cố níu lấy nó? Không phải
những thú vui, vì những người mà cuộc đời đã là một chuỗi dài
những đau khổ cũng lùi lại và khóc lóc khi vị tử thần từ bi chìa
những cánh tay ủy lạo của ngài ra với họ. Không phải là xã hội,
bởi vì chúng ta thay đổi toàn bộ các mối liên hệ của chúng ta
tùy theo lề lối chúng ta tiến bước trên con đường rộng lớn mà
mỗi cậu con trai, mỗi cô con gái của con người phải đi theo.
Phải chăng đó là sự sợ hãi làm mất cái bản ngã của chúng ta, cái
bản ngã thân thương mà chúng ta nghĩ là đã biết rất rõ, trong
lúc nó luôn luôn làm ra những việc khiến chúng ta kinh ngạc? Tại
sao người tự vẫn lại bám chặt một cách tuyệt vọng lấy cái cột
chân cầu khi con sông nhận chìm hắn xuống? Phải chăng Tạo hóa sợ
rằng các nghệ nhân mệt mỏi của ngài sẽ quăng dụng cụ và mở cuộc
đình công, nên ngài mới phát minh ra cách này để giữ họ lại
trong trách vụ hiện tại? Dù sao thì các du khách của tàu Korosko
cũng đã bị phiền nhiễu và lăng nhục quá nhiều rồi: họ thấy vui
thích được sống thêm vài giờ mới mẻ của sự đau khổ.

Hãy cảm ơn bài viết của donka bằng cách bấm vào "" ở bên dưới nhé!!!

Về Đầu Trang Go down

https://dlthanh.forumvi.com

donka
donka

//dondonitt

Tổng số bài gửi : 143
Points : 425
Reputation : 25
Join date : 06/06/2011

Bài gửiTiêu đề: Re: Tấn Thảm Kịch Của Tàu korosko Tấn Thảm Kịch Của Tàu korosko Icon_minitimeThu Jun 09, 2011 10:59 am

Chương 7:


Trong khi họ tiến bước, không có gì chứng tỏ với các tù nhân là
họ không đi quay trở lại những nơi mà họ đã đi qua hồi khuya tới
buổi chiều khi mặt trời lên. Những quả đồi đen xẫm và cát vàng
theo dọc bờ sông đã biến mất từ lâu rồi, họ thấy mình đang ở
giữa một cánh đồng chập chùng, màu nâu với những hòn đá cuội
tròn trịa, rải rác những cụm cỏ của lạc đà, và nó chạy dài mãi
tới một dãy đồi tím, ở đằng xa trước mặt họ. Mặt trời còn chưa
mọc khá cao để gây ra những ánh phản quang long lanh của miền
nhiệt đới và cái phong cảnh mênh mông hiện ra với một sự rõ ràng
tuyệt đối trong ánh sáng trong trẻo. Ðoàn người dài bước theo
nhịp lê lết của những con lạc đà có đóng yên. Ở hai bên hông
đoàn người, những tên lính do thám dừng lại ở mỗi chỗ gò cao, và
xem xét chân trời phía đông trong lúc che mắt lại.

"Theo ý ông thì chúng ta ở cách sông Nil bao nhiêu xa?" ông đại
tá hỏi.

Chính ông cũng luôn luôn ngoảnh lại để đo lường sự bao la của sa
mạc.

"Ít nhất là tám mươi cây số! " Belmont trả lời. "Không nhiều thế
đâu!" ông đại tá cãi lại. "Chúng ta đã không đi quá mười lăm hay
mười sáu giờ, và một con lạc đà không đi được trên bốn cây số
một giờ nên nó không chạy nước kiệu. Ðiều này rút bớt khoảng
cách chừng sáu mươi hay sáu mươi lăm cây số: tuy nhiên thật quá
xa, tôi sợ thế, để cho chúng ta được giải cứu. Tôi không nghĩ
rằng thời hạn ban cho chúng ta sẽ giúp chúng ta được điều gì lớn
lao đâu. Chúng ta có gì để hy vọng? không có gì khác ngoài cái
số mạng đang đợi chúng ta!"

"Chớ có chán nản!" người đàn ông Ái Nhĩ Lan nói lớn. "Chuông báo
chính ngọ chưa rung mà, phải làm nhu thể, Hamilton và Hedley,
trong đạo binh lạc đà đều là những chàng trai dũng cảm, họ phải
xông vào theo các dấu vết của chúng ta. Họ không có những con
lạc đà đóng yên để làm họ phải chậm trễ, tôi cam đoan với ông!
Tối hôm qua khi tôi dùng bữa với họ ở câu lạc bộ và khi họ giải
thích với tôi cách thức họ chống trả lại một cuộc cướp bóc, tôi
đã không nghĩ rằng tính mạng của chúng sẽ lệ thuộc vào họ".

"Cũng được, chúng ta sẽ theo đuổi cuộc chơi cho tới cùng!"
Cochrane nói. "Nhưng tôi không có nhiều hy vọng lắm. Tất nhiên
là chúng ta sẽ phải làm ra bộ cứng cỏi trước các phụ nữ. Tôi
nhận thấy rằng Tippy Tilly là một người đúng mực, vì năm tên da
đen này và hai tên Ả Rập đen xạm kia đúng là những người bạn mà
y đã nói với chúng ta. Họ không rời xa nhau, vẫn đứng ngang tầm
với chúng ta; nhưng tôi tự hỏi họ sẽ có thể làm được điều gì để
giúp chúng ta".

"Tôi đã lấy lại khẩu súng lục của tôi rồi.... ", Belmont nói
thầm thào.

Ông nghiến răng và co giật hai quai hàm trước khi nói tiếp:

- ...Nếu chúng liều mạng đùa với các phụ nữ, tôi nhất quyết hạ
sát cả ba người trong bọn họ bằng chính tay tôi, sau đó chúng ta
sẽ chết, linh hồn thanh thản hơn!

"Ông là một anh chàng phong nhã!" ông đại tá lẩm bẩm.

Họ im tiếng. Vả lại cũng không ai nói nhiều cả. Một cảm giác mơ
hồ không thể diễn tả được đang tràn ngập tất cả bọn họ, làm như
họ đã nuốt một viên ma túy. Bao giờ tạo hóa cũng cho ta một thứ
thuốc an thần khi một cơn biến động khốc liệt đã kích thích quá
nhiều thần kinh của ta, sự thanh thản an bình của nỗi tuyệt vọng
đã chiếm ngự lòng họ.

"Thật là đẹp một cách ma quỉ!"' Cochrane thở dài khi nhìn chung
quanh ông. "Tôi thường nghĩ rằng tôi thích được chết trong làn
sương mù vàng, lành mạnh của Luân Ðôn, nhưng chúng ta sẽ có thể
thấy sự tệ hại hơn".

"Còn tôi, thì tôi thích chết trong lúc ngủ" Sadie nói. "Thật là
một điều kỳ diệu khi thức dậy và thấy mình đang ở một thế giới
khác! Ở đại học, Henry Smith luôn luôn nhắc nhở chúng tôi: "Ðừng
nói với tôi một đêm tốt lành", mà hãy cầu chúc cho tôi "một buổi
sáng tốt đẹp trong một thế giới hoàn mỹ".

Bà cô theo thanh giáo của nàng lắc đầu.

- Sadie này, trình diện trước đấng tối cao mà không có sự chuẩn
bị thì thật là khủng khiếp!

"Chính sự cô đơn của cái chết mới là khủng khiếp". Bà Belmont
nói. "Nếu chúng ta cùng chết một lúc với tất cả những người mà
chúng ta yêu mến thì chúng ta sẽ hình dung cái chết một cách đơn
giản như một sự thay đổi chỗ ở".

"Nếu sự bất hạnh xảy ra, chúng ta sẽ không bị cô độc" , ông
chồng bà đính chính. "Tất cả chúng ta sẽ cùng đi với nhau, và ở
thế giới bên kia chúng ta sẽ gặp Brown, Headingly và Stuart đang
chờ đợi chúng ta".

Người đàn ông Pháp nhún vai, ông không tin ở một kiếp sống khác
sau cái chết, nhưng ông ghen tị với hai người công giáo về sự
thanh thản trong lòng tin của họ. Ông cười thầm khi nghĩ tới các
bạn ông ở tiệm cà phê Cubat sẽ nói gì nếu họ biết rằng ông đã hy
sinh mạng sống trên bàn thờ của tín ngưỡng Cơ đốc, cái ý nghĩ
này càng làm ông thấy vui vui, thì nó lại càng làm ông bực bội,
việc này không ngăn cản ông săn sóc cái cổ tay bị thương của ông
như một bà mẹ ấp ủ đứa bé đau ốm của bà.

Ngang qua bãi sa mạc lởm chởm đá, một đường màu vàng dài và mỏng
theo hướng từ Bắc tới Nam vừa mới hiện ra. Đó là một giải cát mà
bề rộng không quá vài trăm mét và những chỗ phình lên cũng không
vượt quá ba mét bề cao. Các tù nhân kinh ngạc khi thấy những tên
Ả Rập ngắm nhìn nó với một nét mặt cực kỳ áy náy: khi chúng đi
tới trước cái mép của nó, chúng dừng lại giống như khi chúng
đứng trên bờ một con sông không lội qua được. Loại cát này rất
nhẹ, nhiều bụi bặm, mổi luồng gió nhẹ cũng làm bay tung lên như
một đám mây những con ruồi nhỏ, tù trưởng Abderrahman cố thúc
con lạc đà của y vào bên trong, nhưng đi được hai hay ba bước
thì con vật đứng khựng lại, rên rỉ vì khiếp sợ. Hai tên chỉ huy
bàn bạc với nhau một lát, rồi đoàn người đi về hướng Bắc, để lại
giải cát ở phía bên trái họ.

"Có chuyện gì vậy?" Belmont hỏi anh thông ngôn. "Tại sao chúng
ta không tiếp tục đi thẳng về hướng Tây?"

"Cát di động", Mansoor trả lời. Thỉnh thoảng gió cuốn cát đi
thành một vạch dài như cái vạch kia. Ngày mai nếu gió nổi lên,
có lẽ sẽ không còn lại một hạt nào, nhưng tất cả đống cát kia sẽ
du ngoạn trên không trung. Có lần một người Ả Rập bị buộc phải
rẽ ngang ra tới tám mươi hay một trăm cây số để đi vòng qua một
dải cát di động. Nếu y muốn bước qua nó thì con lạc đà của y sẽ
bị gẫy chân, và chính y cũng sẽ bị hút vào và nuốt chửng".

- Chiều dài của cái dải này là bao nhiêu?

- Không ai biết gì về nó cả.

- Này ông Cochrane, đó là diều thuận lợi cho chúng ta! Cuộc truy
lùng càng dài thì những con lạc đà còn sung sức càng có nhiều cơ
may.

Ðã đến lần thứ một trăm Belmont quay đầu lại để quan sát chân
trời phía sau họ: bãi sa mạc rộng lớn lúc nào cũng nâu và ảm đạm
nhưng không có một chút lấp lánh của ánh thép, không có sự óng
ánh của một cái mũ trắng.

Chẳng mấy chốc họ đi tới chỗ tận cùng của vật chướng ngại đã
ngăn cản bước tiến của họ về hướng Tây. Dải cát kéo dài trong
khi co hẹp lại, khi nó trở thành đủ hẹp để có thể bước qua bằng
một cái nhảy, tuy nhiên những người Ả Rập thích đi dọc theo nó
trong nhiều trăm mét nữa hơn là đi qua nó. Nhưng khi những con
lạc đà lại thấy mặt đất tốt và rắn trước mặt chúng thì chúng bị
thúc chạy nước kiệu và những tù nhân bị lắc lư trong một thứ
chòng chành và nghiêng ngả kết hợp với nhau. Thoạt đầu họ mỉm
cười về chuyện này; nhưng trò chơi đã mau lẹ biến thành bi kịch
khi bệnh "say lạc đà" khủng khiếp làm họ đau đớn khắp mình mẩy
và xương sống.

- Cô không chịu được nữa rồi, Sadie ạ! Cô Adams kêu lên. Cô đã
làm những gì cô có thể làm. Cô sắp ngã đây này.

- Không, cô ơi, không! Nếu cô để mình bị ngã thì cô sẽ gãy
xương. Hãy cố gắng thêm một chút; có lẽ họ sắp dừng lại đó!

- Cô hãy 'tựa người về' đằng sau, ông đại tá nói, và nắm lấy mạn
sau cái yên. Thế đó. Tư thế này làm dễ chịu...

Ông tháo tấm mạng trên mũi của ông, buộc hai đầu lại và cột nó
vào cái mấu phía trước của cái yên.

- Luồn bàn chân cô vào cái vòng, như thể nó là một cái chân
nâng...

Sự thoải mái đến ngay tức thì. Stephens cũng làm việc đó cho
Sadie. Nhưng sau đó một lát, một trong những con lạc đà sụm
xuống vì mệt nhọc, trong một tiếng lách cách khô khan, những bàn
chân nó xoạc ra như thể nó bị xé thành nhiều mảnh; đoàn lữ hành
phải sử dụng lại một nước đi chừng mực hơn.

- Ở đằng kia không phải là một dải cát di động nữa hay sao ? ông
đại tá hỏi.

- Không, đó là một dải trắng. Belmont trả lời. Này, Mansoor, cái
gì ở đằng trước chúng ta thế?

Anh thông ngôn lắc đầu.

- Thưa ông, tôi không biết gì cả. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy nó.


Từ Bắc tới Nam, một vạch trắng kéo dài ra, cũng thẳng tắp và rõ
ràng như thể nó được kẻ bằng phấn. Nó rất mỏng, nhưng nó trải
dài từ chân trời này tới chân trời kia. Tippy Tilly chỉ dẫn cho
Mansoor.

- Ðó là con đường lớn của những đoàn lữ hành, ông thông ngôn
giải thích.

- Vậy thì cái gì làm cho nó trắng như thế?

- Những hài cốt.

Thật không thể tin được, nhưng có thật! Khi họ đi tới gần, họ
nhận thấy quả thực đó là một lối đi băng qua sa mạc, bị khoét
sâu xuống bởi sự dẫm đạp của những con vật và những con người,
và được cắm mốc một cách quá phong phú bằng những bộ xương người
khiến cho người ta ấn tượng của một dải khăn trắng dài liên tu
bất tận. Những con vật nằm duỗi dài, nom ghê gớm cắm mốc trên
con đường, trong khi ở nhiều chỗ những dãy xương sườn nối tiếp
nhau quá gần khiến người ta tính nói đó là cái xác của một con
rắn quái dị. Con đường trắng lậpp lòe dưới ánh mặt trời như thể
nó được lát bằng ngà. Từ mấy ngàn năm nay nó đã là con đường lớn
xuyên qua sa mạc và tất cả những con vật của vô số kể các đoàn
lữ hành đã chết ở đó đều được bảo tồn bởi không khí khô ráo và
sát trùng. Do đó người ta không phải ngạc nhiên là không thể dẫm
lên con đường mà không đồng thời dẫm lên những bộ xương của
chúng.

- Ðây hẳn là con đường mà tôi đã nói với cô, Stephens nói. Tôi
nhớ là đã nói tới nó trên tấm bản đồ mà tôi đã vẽ cho cô, cô
Adams ạ. Sách chỉ nam của Baedeker nói là nó đã không được sử
dụng từ khi cuộc nổi loạn của bọn thầy tu Hồi giáo làm gián đoạn
mọi việc buôn bán, nhưng nó là con đường chính cho phép da thú
và nhựa cây ở Darfour đi xuống tới Ai Cập Hạ.

Họ nhìn con đường với sự hững hờ: số phận của chính họ đã làm
cho họ bận tâm khá nhiều rồi. Tới đó đoàn lữ hành đi theo hướng
Nam bằng cách đi theo con đường cũ. Con đường Golgotha này (theo
Kinh Thánh, đó là con đường mà Chúa Ki - Tô đi tới nơi bị hành
quyết, con đường chết) thật đúng là con đường thích hợp với nỗi
thống khổ đang chờ đợi họ.

Giờ phút quyết định tới gần : số phận sắp đùa với họ. Bị kinh
hoàng vì những viễn tượng rùng rợn mà ông hình dung ra đối với
các phụ nữ, đại tá Cochrane, phải cố nén tính kiêu ngạo và cầu
khẩn những lời khuyên của anh thông ngôn bội giáo, Mansoor là
một tên đểu cáng và hèn nhát, nhưng vốn là người Ðông phương nên
hắn hiểu tính tình của người Ả Rập. Sự trò chuyện đã làm dễ dàng
việc giao dịch của hắn với bọn thầy tu Hồi giáo, và hắn đã làm
cho chúng nói năng dông dài. Tâm tính cứng rắn và quý tộc của
Cochrane nổi lên chống cự dữ dội với ý nghĩ đi cầu khẩn lời
khuyên của một con người như thế; cuối cùng, khi ông quyết định
làm việc đó, ông nói với một giọng khản khản nhất và ít hòa dịu
nhất.

- Anh biết rõ những tên kẻ cướp này, và anh có cùng một cách suy
nghĩ về các biến cố như chúng, ông nói: Mục đích của chúng tôi
là kéo dài tình trạng này trong hai mươi bốn giờ đồng hồ nữa.
Một khi thời hạn đó trôi qua rồi, chúng tôi ít còn quan tâm "tới
những gì: sẽ tới với chúng tôi nữa, vì chúng tôi sẽ không còn hy
vọng được giải cứu nữa. Vậy làm cách nào để lần khân thêm được
một ngày nữa?

- Ông đã biết những gì tôi nghĩ về việc này, anh thông ngôn trả
lời. Tôi đã nói với ông điều đó rồi. Nếu các ông làm như tôi,
chắc chắn là các ông sẽ tới được Khartoum một cách yên ổn, khỏe
mạnh. Bằng không thì các ông sẽ không còn sống để rời khỏi chỗ
trạm dừng chân sắp tới của chúng ta.

Cái mũi cong của ông đại tá lại vểnh lên và hai gò má gầy ốm của
ông ửng đỏ. Ông lặng lẽ tiến bước trong một lúc, vì thời gian
phục vụ ở Ấn Ðộ đã tạo cho ông một tính nết lì lợm, và những
cuộc phiêu lưu mới đây lại bổ sung thêm cho ông đôi chút ranh
mãnh. ông đợi tới lúc có thể nói chuyện một cách điềm tĩnh.

- Hãy gác ý kiến đó sang một bên, cuối cùng ông nói. Có những
việc có thể làm được và có những việc khác không thể làm được.
Việc đó không thể làm được.

- Ông chỉ cần làm giả bộ là cải giáo.

- Việc đó đã nói nhiều rồi!

Mansoor nhún vai.

- Ông hỏi ý kiến tôi làm gì, nếu ông tức giận khi tôi cho ông
biết ý kiến của tôi? Nếu ông không muốn hành động như lời tôi
khuyên thì ông hãy cứ làm việc gì mà ông cho là phải đi. Ít nhất
ông sẽ không thể nói là tôi đã không làm hết sức mình để cứu các
ông.

- Tôi không tức giận, ông đại tá trả lời với một giọng đỡ khô
khan hơn. Nhưng như thế sẽ là hạ thấp chúng tôi tới quá mức mà
chúng tôi có thể chịu đựng. Tôi nghĩ tới một việc khác. Có thể
anh sẽ bằng lòng nói cho cái lão thầy tu và tên thầy giảng kia
biết rằng chúng tôi đã bắt đầu nao núng. Với cái hố sâu mà chúng
tôi đang bị lún xuống, tôi không nghĩ rằng hắn ta cho việc đó là
bất bình thường. Rồi tới khi hắn ta tới giảng dạy cho chúng tôi,
chúng tôi sẽ có thể đóng kịch giả vờ là quan tâm tới các bài
giảng của hắn, yêu cầu hắn hoàn chỉnh sự học hỏi của chúng tôi
và như vậy để kéo dài công việc trong hai mươi bốn tiếng hoặc
bốn mươi tám tiếng đồng hồ. Anh không nghĩ đó là ý kiến tốt nhất
hay sao?

- Các ông sẽ làm điều gì các ông muốn, Mansoor nói. Tôi chỉ cho
các ông biết ý kiến của tôi một lần thôi. Nên ông muốn tôi nói
với tên thầy giảng, tôi sẽ nói với hắn. Hắn là cái người nhỏ
thó, tròn xoe, có vẻ hiền lành, có chòm râu bạc, ngồi trên con
lạc đà màu hạt dẻ. Tôi có thể đoan chắc với ông rằng hắn đã nổi
tiếng là một tay đạo sư giỏi trong việc cải đạo cho những kẻ vô
tín ngưỡng, và danh tiếng của hắn là sự kiêu hãnh của hắn, và
chắc chắn là hắn sẽ thích thấy các ông được tha chết, nếu hắn
nghĩ rằng có cơ may cải giáo cho các ông theo đạo Hồi.

- Nói với hắn rằng chúng tôi có tâm hồn cởi mở và sẵn sàng đón
tiếp những hạt mầm tốt, ông đại tá khẩn khoản nói. Tôi không tin
rằng ông mục sư sẽ còn sống tới lúc đó, nhưng vì ông đã chết nên
chúng tôi có thể làm sự nhượng bộ này. Mansoor, đi tìm hắn đi và
nếu anh làm việc tốt, chúng tôi sẽ quên những chuyện đã qua.
Nhân tiện tôi hỏi, Tippy Tilly có nói gì với anh không?

- Thưa ông, không. Hắn đã tụ tập những người của hắn ở quanh
hắn, nhưng hắn vẫn chưa tìm ra cách để giúp các ông.

- Tôi cũng chưa có cách gì cả. Anh đi gặp tên thầy giảng đi,
trong khi tôi cho những người khác biết về kế hoạch của chúng
ta.

Tất cả các tù nhân đều tán thành kế hoạch của ông đại tá ngoại
trừ cô gái già ở Tân Anh Cát Lợi (Nouvelle Angleterre trên đất
Mỹ) là thẳng thắng bác bỏ việc giả vờ có một mối quan tâm nào đó
với đạo Hồi.

- Tôi nghĩ rằng tôi đã quá già để quỳ gối trước thần Baal! Cô
nói.

Trước những lời năn nỉ của ông đại tá, cuối cùng cô đã hứa là cô
sẽ không biểu lộ sự phản đối về những gì mà các bạn cô sẽ có thể
nói hay làm.

- Và ai sẽ ra tranh luận với tên thầy giảng kia? Fardet hỏi.
Ðiều quan trọng là cuộc tranh luận phải diễn ra một cách hết sức
tự nhiên, vì nếu hắn cho rằng chúng ta chỉ cố tìm cách kéo dài
thời gian, hắn sẽ từ chối không giảng dạy thêm cho chúng ta nữa.


- Tôi thấy rằng, Cochrane sẽ phải đảm trách việc này bởi vì ý
kiến xuất phát từ ông, Belmont nói.

- Xin tha lỗi cho tôi! Người đàn ông Pháp nói lớn. Tôi không
muốn nói điều gì chống lại ông bạn đại tá của chúng ta, nhưng
không thể nào cùng một người mà lại vượt trội về mọi thứ được.
Nếu ông ấy đảm trách việc này tức là đi thẳng tới sự thất bại;
tên thầy giảng sẽ phát hiện ngay ra mánh khóe của ông đại tá.


- Ông tin vậy à ? Ông đại tá hỏi với vẻ uy nghi.

- Phải, ông bạn ạ, hắn sẽ đọc thấy ở ông! Cũng giống như phần
lớn các đồng bào của ông, ông hoàn toàn thiếu cảm tình đối với
các tư tưởng của những dân tộc khác, và đó chính là khuyết điểm
lớn mà tôi thường trách cứ nước các ông.

- Ồ, hãy dẹp chuyện chính trị đi! Belmont không nhịn được nữa.


- Tôi không nói chuyện chính trị! Tôi nói chuyện thực tế. Làm
cách nào mà đại tá Cochrane có thể làm cho tên thầy giảng tin
rằng ông thực sự quan tâm tới tôn giáo của hắn, trong khi đối
với hắn thì trên thế giới không còn một tôn giáo nào khác ngoài
tôn giáo mà cái giáo phái nhỏ bé từng nuôi dạy hắn đã nhồi nhét
cho hắn? Tôi xin nói thêm cho ông đại tá biết là tôi tin chắc
rằng ông không có một chút tính nết nào của kẻ đạo đức giả. Ông
sẽ không bao giờ có thể đóng màn kịch đủ khéo để đánh lừa tên Ả
Rập đó!

Ông đại tá có một cái lưng cứng cỏi và bộ mặt cương nghị của một
người đang tự hỏi rằng ông có nên coi đó là bị sỉ nhục hay được
tán tụng.

- Vậy thì ông hãy đảm nhận cuộc tranh luận đi, nếu ông thích làm
việc này, cuối cùng ông nói. Tôi rất sung sướng được thoát khỏi
công việc khổ cực này.

- Quả thật tôi nghĩ rằng tôi là người thích hợp nhất với nhiệm
vụ này, vì tất cả các tôn giáo đều làm cho tôi quan tâm như
nhau. Khi tôi tìm hiểu, thì thật sự là tôi mong muốn được hiểu
biết, chứ không phải để đóng một vai trò.

- Ðiều tốt nhất chắc chắn là việc ông Fardet đảm trách chuyện
này, bà Belmont nói với một giọng quả quyết, giọng nói của bà đã
tập hợp được sự nhất trí của mọi người.

Mặt trời lúc này đã lên cao, và nó làm lóe sáng những bộ xương
trắng cắm mốc trên đường. Khổ hình của sự khát nước lại hành hạ
những tù nhân. Trong lúc họ bước đi, hình ảnh cái phòng trên tàu
Korosko nhảy múa trước mặt họ như một ảo ảnh; họ nhìn thấy những
khăn bàn ăn và những khăn mặt trắng tinh, cái thẻ của những chai
rượu nho, những cái cổ dài của những cái chai, những chai nước
có khí hơi. Sadie, người vẫn khỏe khoắn, tỉnh táo cho tới lúc
này, bỗng nhiên lên một cơn u uất thật sự, và những tiếng cười
vô cớ sắc nhọn của nàng đã làm các bạn đồng hành của nàng bực
bội một cách khủng khiếp. Bà cô của nàng và ông Stephens cố hết
sức làm nàng im tiếng cười, và sau một lát cô thiếu nữ kiệt sức,
bị huyết áp lên cao, đã chìm vào trạng thái nửa chừng giữa giấc
ngủ và sự hôn mê, chỉ còn níu lấy một cách lỏng lẻo cái núm của
cái yên, chắc chắn là nàng sẽ ngã nếu nàng không được mọi người
vây quanh nâng đỡ những con vật tải đồ cũng mệt mỏi như các
người cưỡi chúng; những người này phải luôn tay kéo sợi dây
thừng buộc vào đai bịt mồm, để ngăn không cho chúng quỵ xuống.
Từ chân trời này tới chân trời nọ, trải dài cái vòm mông mênh
của bầu trời xanh không một vết gợn; mặt trời lầm lì bò dọc theo
cái lòng chảo dữ dội của nó.

Họ vẫn đi dọc theo con đường mòn cũ, nhưng họ đi rất thong thả.
Nhiều lần hai tên tù trưởng tới xem xét những con lạc đà chở các
tù nhân, và chúng lắc đầu. Con vật chậm chạp nhất do một tên
lính Soudan bị thương cưỡi; nó đi khập khiễng và nó chỉ giữ được
ngang hàng với những con khác nhờ sự thêm sức của những nhát
roi. Tù trưởng Wad Ibrnhim giơ súng lên, tì vào vai và bắn một
phát đạn vào đầu nó. Người lính bị thương ngã xuống bên cạnh con
vật hắn cưỡi. Những người bạn trong cơn bất hạnh quay đầu lại và
thấy hắn lảo đảo đứng dậy. Ngay cùng lúc đó một tên baggara từ
trên mình lạc đà nhảy xuống, thanh gươm trong tay.

- Chớ có nhìn! Belmont nói lớn với các phụ nữ.

Tất cả bọn họ đều quay đầu về hướng Nam. Họ không nghe thấy một
tiếng ồn nào. Nhưng một lát sau tên baggara đuổi kịp bọn họ. Hắn
chùi thanh gươm lên lông cổ con lạc đà của hắn, lúc đi qua hắn
nở một nụ cười nham hiểm với họ, nhe tất cả hàm răng trắng ởn
của hắn ra. Nhưng những con người đang ở mức độ thấp nhất trong
sự khốn khổ của loài người ít nhất cũng có một sự bảo đảm về
tương lai: nụ cười khả ố này sẽ làm cho họ phát run lên hai mươi
bốn giờ trước đây, nhưng lúc này thì nó chỉ gợi lên trong lòng
họ một sự bất cần khinh bỉ.

Nếu họ mà ở trong tình trạng quan sát con đường mòn cũ kỹ của
khách thương này với con mắt người du ngoạn thì họ đã chú ý tới
rất nhiều điểm đáng quan tâm. Chỗ này, chỗ nọ còn thấy những
cảnh hoang tàn suy sụp của những tòa lâu đài cổ, cổ quá đến nỗi
chúng thách đố lịch sử, nhưng chúng đã được xây dựng vào thời
một nền văn minh rất xa xưa với mục đích cung cấp cho các lữ
khách một nơi tránh nắng và một chỗ trú ẩn chống lại bọn kẻ
cướp. Những viên gạch đất bùn được dùng trong việc xây dựng
chúng chứng tỏ rằng các vật liệu đã được chuyên chở từ sông Nil
tới. Một lần đứng trên chóp đỉnh của một khu đất nhỏ gồ lên họ
thấy một khúc cột bằng đá hoa cương đỏ ở Assouan bị gãy; nó được
trang hoàng hình tượng có cánh của vị thượng đế Ai Cập với khuôn
ảnh của hoàng đế Ramsès ÌI. Sau ba ngàn năm không có cách nào để
tránh khỏi những dấu vết không thể xóa bỏ được của ông vua ham
chiến trận! Ðối với các tù nhân khuôn ảnh này là một biểu tượng
của hy vọng, dấu hiệu là họ vẫn chưa rời khỏi phạm vi ảnh hưởng
của người Ai Cập.

- Ngày xưa họ đã để danh thiếp lại, Belmont nói. Tại sao họ
không tới để danh thiếp lại một lần nữa?

Và mọi người đều gắng gượng mỉm cười.

Rồi họ đi tới trước một quang cảnh nhìn rất đã mắt, chỗ này, chỗ
nọ, trong nhữmg nơi đất lõm, ở hai bên con đường mòn, họ nhìn
thấy một vài cọng cỏ, sự hiện diện này có nghĩa là nước không
cách xa mặt đất. Ðột nhiên con đường mòn đi sâu vào một lòng
chảo lớn, dưới đáy lòng chảo là một khu rừng nhỏ những cây cọ
trông thật mê hồn và một bãi cỏ xanh rờn tráng lệ. Mặt trời
chiếu sáng chan hòa cái vệt có màu sắc trong sáng và tươi tắn
này, ánh nắng làm nó lóng lánh như một viên ngọc bích thuần
khiết được nạm vào miếng đồng bóng loáng. Nhưng vẻ đẹp của ốc
đảo không làm quên được những hứa hẹn chứa chất trong nó: nước,
bóng mát, tất cả những thứ mà những kẻ lữ hành đã kiệt sức có
thể mong ước. Ngay cả Sadie cũng tỉnh lại khi nàng nhìn thấy
phong cảnh tươi tốt này, những con lạc đà mệt lử lại đứng lên và
bắt đầu chạy nước kiệu trong khi thở hít khí trời. Sau sự khắc
nghiệt tàn nhẫn của sa mạc, các tù nhân không thể nhìn thấy điều
gì tốt đẹp hơn nữa. Họ ngắm nghía bãi cỏ trên đó những bóng đen
của các cây cọ đổ dài, rồi họ ngẩng mặt lên nhìn những tàu lá
xanh lớn nổi bật lên trong màu xanh của nền trời và họ quên đi
cái chết cận kề của họ trước vẻ đẹp của Tạo hóa mà trong lòng
của Người họ sắp trở về.

Ở giữa rừng cây có bảy cái giếng; cần phải thêm vào đó hai cái
vũng nhỏ chứa đầy môt thứ nước màu than bùn. Những con lạc đà và
mọi người chạy xô tới uống lấy uống để. Sau đó bọn Ả Rập cột
những con vật lại và trải chiếu dưới bóng cây để ngủ. Các tù
nhân lãnh được một suất chà là và những cái bánh khô; họ được
cho biết rằng họ có thể làm những gì họ muốn trong lúc nóng nực
lúc ban ngày, và tên thầy giảng sẽ tới thăm họ trước khi mặt
trời lặn. Các phụ nữ được hưởng bóng mát dày hơn của một cây
keo; những người đàn ông thì nằm dài ra dưới những cây cọ. Những
tàu lá xanh kêu sột soạt một cách nhẹ nhàng bên trên đầu họ. Họ
nghe thấy tiếng líu lo không rành rọt của các giọng nói Ả Rập,
tiếng dậm chân của những con lạc đà; rồi thì do kết quả của một
phép lạ bí ẩn và không thể hiểu được, người thì thấy mình đang
đứng trong một thung lũng xanh tươi ở Ái Nhĩ Lan, người khác thì
trông thấy viên cảnh của đại lộ Commonwealth, người thứ ba thì
đang ăn ở một cái bàn nhỏ trước pho tượng bán thân của Nelson
tại Câu lạc bộ Lục quân và Hải quân và tiếng xào xạc của những
tàu lá trở thành tiếng các xe cộ đang chạy ở trong Pall Mall
(con đường ở đó có trò chơi dùng vồ gỗ đánh những trái bóng gỗ).
Cứ như vậy tâm tri họ di lang thang mỗi người một phía trên con
đường của những ký ức riêng tư, trong khi thể xác buồn thảm của
họ nằm trơ bên nhau, dưới những cây cọ của một ốc đảo trong sa
mạc nước Libye.

Hãy cảm ơn bài viết của donka bằng cách bấm vào "" ở bên dưới nhé!!!

Về Đầu Trang Go down

https://dlthanh.forumvi.com

donka
donka

//dondonitt

Tổng số bài gửi : 143
Points : 425
Reputation : 25
Join date : 06/06/2011

Bài gửiTiêu đề: Re: Tấn Thảm Kịch Của Tàu korosko Tấn Thảm Kịch Của Tàu korosko Icon_minitimeThu Jun 09, 2011 11:00 am

Chương 8:


Đại tá Cochrane bị kéo ra khỏi giấc ngủ bởi một người nào đang
lay vai ông. Mắt ông mở ra sát với khuôn mặt đen lo sợ của Tippy
Tilly. Người cựu pháo thủ Ai Cập để một ngón tay cong queo của
hắn lên cặp môi dày cui, và hắn không ngừng nhìn hết bên phải
tới bên trái. “Nằm yên! Chớ động đậy!” Hắn nói thì thào bằng
tiếng Ả Rập. Tôi sẽ nằm xuống bên cạnh ông; người ta sẽ không
phân biệt được tôi với những người khác, ông có thể hiểu những
gì tôi nói với ông không?” :

- Có, nếu anh nói thong thả :

- Được. Tôi không đặt nhiều lòng tin vào thằng cha Mansoor kia,
tôi muốn nói chuyện trực tiếp với ông chỉ huy :

- Anh có điều gì muốn nói với tôi?

- Tôi chờ đợi đã lâu cho tới lúc tất cả bọn chúng đã ngủ say.
trong một giờ nữa chúng tôi sẽ đọc kinh buổi chiều. Trước hết
đây là một khẩu súng lục, ông sẽ không thể nói là ông không có
vũ khí.

Đó là một khẩu súng kiểu cổ, nhưng ông đại tá thấy ngay là nó đã
được nạp đạn. Ông luồn nó vào túi áo trong của áo mặc ngoài của
ông:

- Cám ơn! Xin hãy nói thật thong thả để tôi có thể hiểu được ạnh
:

- Chúng tôi có tám người muốn trở về Ai Câp. Trong nhóm các ông,
ông có bốn người đàn ông. Một người trong bọn chúng tôi, Mahomet
Ali, đã cột tất cả mười hai con lạc đà. Đó là những con nhanh
nhất, kể cả những con của hai tù trưởng. Có những tên canh gác,
nhưng chúng đứng rải rác trong mỗi xưởnng. Mười hai con lạc đà
đứng rất gần chỗ chúng tôi: phía sau cây keo. Nếu chúng ta cưỡi
lên chúng và ra đi thì tôi nghĩ sẽ không có nhiều con khác có
thể đuổi kịp chúng ta; ngoài ra những khẩu súng của chúng ta sẽ
loại trừ chúng. Bọn lính gác không đủ nhiều để chặn bắt mười hai
người chúng ta. Những túi da đựng nước đều còn đầy. Chúng ta sẽ
có thể lại nhìn thấy sông Nil vào chiều nay.

Ông đại tá không nắm vững được tất cả nhưng ông cũng hiểu khá đủ
để cho niềm hy vọng lại trỗi dậy trong lòng ông. Cái ngày cuối
cùng đã để lại dấu vết một cách khủng khiếp trên bộ mặt xanh mét
của ông, tóc ông trở nên bạc hết. Người ta có thể nghĩ ông là
cha của viên sĩ quan được chăm nom kỹ. Chúng đã đi dạo những
bước chân quân cách trên boong tàu Korosko :

- Rất hay - ông nói - Nhưng còn những người đàn bà?

Anh lính da đen nhún vai :

- Mặc kệ họ. - hắn nói - Một người thì đi Siria rồi. Và dù sao
thì khi chúng ta trở về Ai Cập, chúng ta sẽ không thiếu đàn bà.
Về phần những người này, sẽ không có gì nguy hiểm xảy ra với họ
đâu. Họ sẽ được gởi tới hậu cung của Quốc vươg:

- Anh nói những chuyện vớ vẩn. - ông đại tá tuyên bố một cách
nghiêm khắc - Hoặc là chúng tôi mang những người đàn bà đi với
chúng tôi, hoặc chúng tôi sẽ không đi.

Anh lính da đen bực tức:

- Tôi nghĩ là chính ông mới nói những chuyện vớ vẩn! - Hắn nói
lớn. - Làm sao ông lại có thể đòi hỏi chúng tôi và các bạn của
tôi phải dấn thân vào một cuộc mạo hiểm mà cuối cùng sẽ bị thất
bại? Chúng tôi đã chờ đợi cơ hội nhiều năm rồi. Hôm nay cơ hội
tới, ông lại bắt chúng tôi đuổi nó đi vì những người đàn bà! :

- Chúng tôi đã hứa với anh những gì nếu chúng tôi trở về được Ai
Cập? - Cochrane hỏi :

- Hai trăm bảng Ai Cập và sẽ thăng cấp trong quân đội Tất cả
trong lời hứa danh dự của một người Anh :

- Tốt lắm. Các anh sẽ lãnh được mỗi ngườl ba trăm bảng, nếu các
anh triển khai một kế hoạch khác cho phép chúng tôi mang theo
những người đàn bà.

Tippy Tilly lấy tay gãi cái đầu tóc rậm bù xù của hắn với vẻ bối
rối :

- Chắc chắn là chúng tôi sẽ có thể bịa ra một lý do nào đó để
đem tới đây ba con lạc đà nhanh nhẹn khác. Nói thật ra còn ba
con ngựa vẫn còn rất tốt trong đám những con được cột ở gần đống
lửa. Nhưng làm thế nào để cho những người đàn bà cưỡi lên? Mà
ngay cả khi chúng ta có thể nâng họ lên trên lưng chúng, chúng
ta cũng biết chắc rằng họ sẽ ngã ngay khi những con vật bắt đầu
phi nhanh Tôi cũng đã sợ rằng các ông, những người đàn ông, các
ông cũng bị ngã, vì không phải là chuyện dễ để giữ được thăng
bằng trên lưng một con lạc đà đang phi nước đại. Còn về những
người đàn bà, đừng nói tới họ nữa? Không, chúng ta sẽ để những
người đàn bà ở đây, và nếu các ông không muốn bỏ rơi họ, thì
chúng tôi sẽ bỏ rơi tất cả các ông, và chúng tôi sẽ đi một mình
:

- Được lắm? Hãy đi đi! ông đại tá nói một cách khô khan .

Và Cochrane lại nằm xuống để ngủ tiếp, ông biết rằng với những
người Đông phương, chính kẻ im lặng không nói mới là kẻ đạt được
mục đích.

Tên da đen đi khỏi và bò tới chỗ một tên trong bọn bạn của hắn,
Mahomet Ali, người trông coi lũ lạc đà.

Cả hai tên bàn bạc một lúc, và cuối cùng thì người ta không từ
bỏ một cách khinh suất ba trăm đồng tiền vàng .

Tên da đen trở lại chỗ ông đại tá, vẫn bằng cách bò choài :

- Mahomet Ali đồng ý. - hắn nói. - Hắn đã đi kiếm ba con lạc đà
kia. Nhưng thật là điên rồ, và tất cả bọn chúng ta đều đi tới
chỗ chết. Xin ông cùng đi với tôi, phải đánh thức những người
đàn bà dậy và nói cho họ biết .

Ông đại tá lay các bạn của ông và thì thầm nói cho họ nghe về kế
họạch của Tippy Tilly. Balmont và Fardet thì sẵn sàng đảm nhận
bất cứ một sự rủi ro nào. Stephens là người đã hình dung một
cách khá lạnh lùng viễn cảnh một cái chết thụ động. nay bị kinh
họàng vì đề nghị của một hành đông tích cực để tránh cái chết;
ông run rẩy tất cả chân tay, ông rút quyển sách chỉ nam ra và
bắt đầu làm nhiệm vụ soạn thảo bản chúc thư của ông trên trang
đầu quyển sách nhưng tay ông run đến nỗi chữ viết của ông không
thể đọc được. Do một sự tập luyện kỳ cục của một linh thần pháp
lý, cái chết, ngay cả có kèm theo nhiều bạo lực, nhưng được chấp
nhận một cách điềm tĩnh vẫn có chỗ đứng trong trật tự hiện hữu
của các sự vật. trong khi một cái chết đánh gục một người đang
cưỡi lạc đà chạy một cách điên dại qua bãi sa mạc đối với ông có
vẻ họàn toàn bất bình thường và hỗn lọan. Ông không sợ bị biến
mất khỏi thế giới của những người sống. Nhưng ông sợ sự nhục nhã
và sự thống khổ do một cuộc tranh đấu vô lý và uổng công chống
lại cái chết làm nảy sinh .

Đại tá Cochrane và Tippy Tilly đi cùng tới chỗ bóng mát của cây
keo lớn, nơi mà những phụ nữ đang nằm duỗi dài - Sadle và bà cô
của nàng ôm nhau mà ngủ; đầu của cô thiếu nữ gối lên ngực bà già
người Mỹ- Bà Belmont được đánh thức dậy; bà đồng ý ngay tức thì:

- Nhưng các ông phải để tôi ở lại - CÔ Adams phản đối. - hãy
nghĩ xem ở tuổl tôi thì còn quan trọng cái gì:

- Không, cô Ellza. Không có cô cháu sẽ không đi! Cô đừng tưởng
rằng cháu sẽ bỏ rơi cô! Cô thiếu nữ kêu lên. Hoặc là cô cùng đi
với chúng cháu, hoặc là cả hai :

- Thôi đi cô, thôi đi! Đây không phải là lúc tranh cãi. - Ông
đại tá nói xen vào một cách thô tục. - mạng sống của chúng ta
tùy thuộc vào mọi cố gắng của các cô. Các cô hiểu rõ rằng chúng
tôi không thể bỏ rơi các cô vào tay lũ kẻ cướp này! :

- Nhưng tôi sợ bị ngã! :

- Tôi sẽ cột cô lại bằng cái khăn choàng của tội Tippy, bây giờ
thì tôi nghĩ rằng chúng ta có thể bắt đầu thi hành kế hoạch .

Nhưng từ một lúc rồi anh lính da đen quan sát bãi sa mạc với một
bộ mặt bối rối. Hắn quay lại và thốt ra một lời nguyền rủa :

- Trông kìa! - Hắn nói với giong bực bội. - ông đã nhìn thấy kết
quả của tất cả sự ba hoa của các ông! Các ông đã làm hỏng cơ may
của chúng tôi và của các ông.

Một toán năm sáu người đàn ông cỡi lạc đà bỗng đột ngột xuất
hiện trên bờ của lòng chảo; bóng của họ nổi bật lên rõ ràng trên
nền trời lúc hoàng hôn. Họ phi nhanh và vung vẩy những khẩu súng
trong tay. Một vài giây sau đó, tù và thổi lệnh báo động, và
trại binh ồn ào lên như một đàn ong vỡ tổ. Ông đại tá chạy tới
nhập bọn với các bạn bè, và Tippy Tilly chạy tới chỗ con lạc đà
của hắn. Stephens có vẻ khoan khoái, Belmont thì nhăn nhó, ông
Farde cáu kỉnh:

- Đồ chó má! - ông kêu lên - Chúng ta sẽ không bao giờ nhìn thấy
kết cục của vụ này à? Sẽ không bao giờ chúng ta thoát khỏi bàn
tay của những tên thày tu Hồi giáo:

- Ồ đúng thật là những tên thầy tu Hồi giáo phải không? - ông
đại tá nói với một giọng chua chát - Tôi thấy hình như ông đã
thay đổi ý kiến. Tôi cứ tưởng bọn thày tu Hồi giáo là một sự bịa
đặt của chính phủ Anh. Chúng con quỉ khốn khổ đã hết sức chịu
đựng rồi .

Sự chế giễu của ông đại tá là một que diêm trong thùng thuốc nổ:
người đàn ông Pháp nhảy chồm lên ông trong lúc tuôn ra hàng
tràng lời chửi bới; ông ấy nắm lấy cổ họng Cochrane trước khi
Belmont và Stephens có thể can thiệp và tách hai người ra :

- Nếu tóc ông không bạc - ông ấy la lên :

- Quỉ tha ma bắt ông đi! - ông đại tá gào lên :

- Nếu chúng ta phải chết, thì hãy chết như những người lịch sự,
chứ không như lũ trẻ lang thang mất dạy.

Belmont nói với vẻ đường họàng :

- Tôi chỉ nói rằng tôi vui thích là ông Fardet đã học được một
điều gì đó trong cuộc phiêu lưu của ông.

Ông đại tá trả lời, vẫn một giọng châm chọc :

- Im lặng lại. Cochrane! - Người đàn ông Ái Nhĩ Lan nói lớn -
Tại sao ông cứ muốn dồn ông ta tới cùng đường :

- Belmont này, tôi chắc là ông quên thân phận của mình rồi. Tôi
không cho phép bất cứ ai được nói với tôi bằng cái giọng đó :

- Vây thì hãy coi chừng những lời nói của ông! :

- Thưa quí ông, thưa quí ông, đây là các bà phụ nữ! - Stephens
nói .

Đang sôi sục trong cơn giận dữ, ba người nín thinh và vừa đi
bách bộ vừa lấy tay giật manh hàng ria mép.

Khí sắc cáu kỉnh là một thứ rất hay lây, vì ngay chính cả
Stephens cùng bắt đầu càu nhàu khi các bạn của ông đi qua, đi
lại trước mắt ông. Họ đối diện với cơn nguy biến lớn nhất đời
họ, bóng của tử thần đang bay lên bên trên đầu họ vậy mà họ tự
để cho mình bị lôi cuốn vào những cuộc cãi cọ riêng tư mà nguyên
nhân quá nhỏ nhặt đến nỗi họ không thể diễn tả ra bằng ngôn ngữ
đươc. Hoạn nạn có thể mang tâm hồn con người lên tới những .

đỉnh cao nhưng càng lên cao thì cán cân càng không ngừng động
đậy.

Tuy nhiên ngay sau đó những nỗi khó khăn, một cấp độ khác đã nắm
giữ sự chủ tâm của họ ở bên cạnh những cái giống một hội đồng
chiến tranh đang nhóm họp. Hai tên tù trưởng lầm lì đang nghe
bản báo cáo mà tên trong toán tuần tra liến thoắng trình bày.
Các tù nhân nhận thấy đã hai, ba lần tên chỉ huy trẻ hơn lùa
những ngón tay của hắn vào trong chòm râu đen dài một cách bực
bội:

- Tôi tin rằng đàn quân lạc đà đã đi truy lùng rồi, - Belmont
nói. - Ngay cả họ không ở cách đây quá xa đâu. Ta có thể đoán
thế bởi sự dao động này:

- Có thể đúng đó. Có điều gì đó làm chúng xôn xao?

- Kìa chúng đang ban hành mệnh lệnh. Lính gì đây? Ô này Mansoor,
có việc gì thế?

Anh thông ngôn bước rảo tới. một tia hy vọng làm rạng rỡ mắt hắn
ta :

- Tôi tin rằng chúng đã trông thấy một điều gì làm chúng hoảng
sợ. Chắc hẳn các binh lính Ai Cập đang đi truy sát chúng. Chúng
đã ra lệnh đổ nước đầy các túi da và chuẩn bị sẵn sàng để khởi
hành khi trời bắt đầu tối. Nhưng tôi cũng phải tập hợp các ông
lại, vì tên thày dòng sắp tới để dạy giáo lý cho các ông. Tôi đã
nói với hắn là các ông đã có cảm tình tốt với đạo Hồi.

Mansoor đã giữ được những lời lẽ mà hắn thông thuộc tới mức độ
nào? Không bao giờ ta biết được cả. Tuy nhiên, người thày giảng
Hồi giáo cũng bước tới chỗ các tù nhân với một nụ cười của kẻ
đang sắp làm một nhiệm vụ dễ dàng. Hắn bị chột mắt và mập ú.
Nhưng chắc ngày xưa hắn phải mập hơn rất nhiều vì mặt hắn có
nhiều nếp nhăn mỡ. Hắn có một khoảng râu bạc và ở trên đầu có
một khăn xanh của những khách tới hành hương ở La Mecque. Một
tay hắn cầm một tấm thảm nhỏ màu hạt dẻ, tay kia cầm một bản
kinh Coran bằng giấy da cừu. Hắn trải tấm thảm của hắn lên mặt
đất và mời Mansoor ngồi xuống bên hắn; rồi hắn lấy tay ra dấu
vòng tròn cho các tù nhân làm thành một vòng tròn quanh hắn;
cuối cùng hắn ra hlệu cho họ ngồi xuống. Con mắt độc nhất của
hắn láo lơ nhìn vào mắt từng người một trong khi hắn trình bày
những nguyên tắc của niềm tin mới hơn, thô bạo hơn, đam mê hơn
của hắn. Họ chăm chú nghe và họ gật đầu môt cách ngụ ý mỗi khi
Mansoor thông dịch lại khích lệ; cứ mỗi dấu hiệu đồng ý là những
cử chỉ của tên thày giảng lại trở nên khả ái hơn và bài giảng
của hắn thân thiết hơn:

- Bởi vì tại sao các người lại đi tìm cái chết, hỡi những con
chiên ngoan của ta. Trong khi tất cả những điều các ngươi được
yêu cầu chỉ là vứt bỏ những gì sẽ đưa các ngươi vào hỏa ngục đời
đời, và chấp nhận luật của đấng Allah như nó đã được viết ra bởi
bậc tiên tri, chắc chắn là luật này sẽ đem lại cho các người
những niềm vui không thể tưởng tượng được, đúng như đã được hứa
hẹn trong cuốn sách của con lạc đà! Bởi vì người đã tuyển chọn
đã nói gì?

Rồi hắn đọc cho họ nghe một trong những bản giáo điều. những thứ
mà được tất cả các tôn giáo đều lấy như là những luận cứ:

- Hơn nữa chẳng phải rõ ràng là Thượng đế ở với chúng ta, bởi vì
từ lúc khởi đầu, khi chúng ta chỉ có gậy gộc để chống lại súng
ống của người Thổ Nhĩ Kỳ. Chiến thắng đã luôn luôn mỉm cười với
chúng ta! Chẳng phải chúng ta đã chiếm El Obeid, chiếm Khatoum
đã hủy diệt Hs, đã giết Gordon, đã thắng tất cả những kẻ động
chạm tới chúng ta đấy. Trong những tình huống này làm sao người
dám không tin là sự tốt lành ở về phía chúng ta?

Trong lúc tên thầy giảng thuyết pháp với họ như thế, ông đại tá
nhận thấy các tên thầy tu Hồi giáo lau chùi súng của chúng, đếm
những viên đạn, và làm mọi việc chuẩn bị cho một trận đánh nhau.
Hai tên tù trưởng bàn bạc với một vẻ nghiêm trọng. Tên trưởng
tuần tra chỉ cho chúng súng của Ai Cập. Rõ ràng là một cơ hội
giải cứu đã tới, với điều kiện là mọi việc có thể kéo dài thêm
vài giờ nữa. Những con lạc đà chưa hồi phục sau cuộc hành trình
dài của chúng. Nếu chiến binh lạc đà đã thật sự lên đường thì
chắc chắn là họ sẽ bắt kịp chúng:

- Vì lòng thương của Thượng đế, hãy cố gắng kéo dài cuộc chơi
đi, Fardet ạ! - ông nói - Tôi tin rằng chúng ta có một vận may
nếu quả bóng còn lăn trong một giờ nữa.

Nhưng phẩm cách bị tổn thương của một người Pháp không nguôi
ngoai được một cách dễ dàng. Ngồi tựa lưng vào cây cọ, ông
Fardet cau cặp lông mày đen lại. Ông không nói gì, nhưng cứ tiếp
tục gịât bộ ria mép cứng:

- Tiếp tục đi, Fardet! Vận mạng của chúng ta tùy thuộc vào ông
đó. - Belmont nói :

- Cochrane cứ làm việc đó đi. - Fardet cau có trả lời - ông ấy
đã quá tùy tiện làm việc này rồi mà, cái ông đại tá Cochrane
này! :

- Đô đốc Belmont nói như thể ông tìm cách làm cho một đứa bé hay
hờn dỗi vui vẻ trở lại Tôi tin chắc rằng ông đại tá sẽ bịểu lộ
sự hối tiếc của ông ấy về sự cố lúc nãy, và ông ấy sẽ nhìn nhận
các sai lầm của ông:

- Tôi sẽ chẳng làm gì về vụ đó cả! - ông đại tá càu nhàu nói :

- Ngoài ra, chuyện cãi vã của ông chỉ liên quan tới môt mình ông
thôi. - Belmont nói tiếp. - Vì sự an toàn của cả bọn chúng ta mà
chúng tôi muốn ông nói chuyện với tên thầy giảng. bởi vì tất cả
chúng tôi đều cảm thấy ông là người có đủ tư cách nhất để làm
việc này .

Nhưng người đàn ông Pháp chỉ nhún vai thôi.

Tên thầy giảng nhìn họ, hết người này tới người nọ và nét mặt
khả ái của hắn bắt đầu tối sầm lại; những nếp nhăn quanh miệng
hắn xẹp xuống :

- Lũ vô đạo này muốn chơi trò đóng kịch với chúng ta hả? - Hắn
hỏi anh thông ngôn - Tại sao chúng nói với nhau và không nói gì
với ta cả?

- Hắn nổi cáu rồi! - Cochrane thở dài - Có lẽ tốt nhất là tôi
phải tự hy sinh tính mạng mình, vì thằng cha khốn kiếp người
Pháp này làm dở dang chúng ta.

Nhưng trí mẫn tiệp của một người đàn bà đã cứu vãn được tình
thế:

- Ông Fardet ạ. - bà Belmont nói. - Tôi tin chắc rằng ông một
người Pháp. Do đó một người hào hiệp, có tinh thần mã thượng,
ông sẽ không chịu để cho một sự tổn thương tới tình cảm của ông
chống lại việc thi hành lời hứa của ông và việc chu toàn các bổn
phận của ông đối với ba người đàn bà bất hạnh chứ?

Fardet nhảy cẫng lên, ông đặt một bàn tay lên ngực :

- Thưa bà, bà đã hiểu rõ bản chất của tôi! - ông nói lớn. - Tôi
không có thể bỏ rơi một người đàn bà. Tôi sẽ làm hết sức mình.
Bây giờ, Mansoor, anh hãy nói với vị thánh nhân này rằng tôi
muốn tranh luận với ông ta về các vấn đề cao siêu của tôn giáo
của ông ta .

Và ông đã tranh luận với một sự xảo diệu làm các bạn của ông
kinh ngạc ngẩn người ra. Ông dùng giọng điệu của một người cảm
thấy mình bị lôi cuốn mạnh mẽ, nhưng còn bị một sư nghi ngại nhỏ
níu lại và một khi sự nghi ngại nhỏ này được ông thầy giảng quét
sạch. Ông lại đưa ra vài sự phản chống thứ yếu là những điều còn
níu ông lại. Trong tất cả những sự ngoắt ngoéo của lý luận của
ông, ông đã không quên đưa ra những lời tán tụng ông thày giảng
Hồi giáo, ông còn đi cả tới việc tự xưng tụng là nhóm ông đã có
sự may mắn gặp được một người tài trí như thế, một nhà toán học
thông thái như thế. Những cái bọng thịt của tên thầy giảng bắt
đầu rung lên vì đắc ý. Hắn tự để cho mình bị lôi cuốn vào hết sự
phản bác này tới sự phản bác khác, rồi tới sự phản bác thứ ba
rồi tới những lần khác nữa. Trong lúc đó màu xanh của da trời đã
chuyển sang màu tím, những tàu lá xanh đã trở thành đen sẫm.
Cuối cùng những vì sao hiện ra giữa những lá cọ :

- Về những gì thuộc về khoa học mà ông đã khen ngợi ta, hỡi con
chiên của ta. - tên thày giảng nói để trả lời một lập luận của
Fardet.- ta đã học ở đại học đường El Azaz ở Le Caire. Và ta
biết ông ám chỉ tới điều gì. Nhưng khoa học của tín đồ không
giống với khoa học của kẻ vô đạo, và chúng ta không được phép đi
quá sâu vào những con đường của đấng Allah. Các tinh tú đều có
một cái đuôi, ôi con chiên ngoan ngoãn của ta, và những tinh tú
khác thì không có đuôi; nhưng có ích lợi gì đâu để tìm hiểu đó
là những tinh tú nào? Thượng đế đã tạo ra tất cả những tinh tú
đó, và chúng sống yên ổn trong bàn tay Ngài. Do đó, hỡi anh bạn
của ta, chớ nên bám lấy cái thứ khoa học vô nghĩa của Tây phương
nữa, và hãy hiểu rằng chỉ có môt sự khôn ngoan: đó là sự tuân
theo ý muốn của đấng Allah như là bậc tiên tri được tuyển chọn
của Ngài đã đặt ra trong sách này. Bây giờ .

thì ta thấy rằng các người đã sẵn sàng đến với đạo Hồi. Hỡi các
con chiên của ta, đã tới giờ rồI, vì tiếng tù và báo hiệu là
chúng ta sắp sửa tiếp tục lên đường, và ngài Tù trưởng
Abdelahman siêu phàm đã ra lệnh rằng quyết định của các người
phải đạt được trước khi chúng ta rời khỏi những giếng nước này :

- Tuy nhiên, thưa cha, vẫn còn nhiều điểm khác mà tôi rất mong
sẽ tiếp nhận được một sự giáo huấn bổ sung. - người đàn ông Pháp
nói - Thật tình đúng là một điều khoái trá khi được nghe sự khúc
chiết của lời nói của ngài, sau những lời mơ hồ mà chúng tôi đã
nghe ở những vị giáo sư khác .

Nhưng tên thầy giảng đã đứng dậy, và một tia nghi ngờ nhen nhóm
lên trong con mắt độc nhất của y:

- Một sự giáo huấn bổ sung như vậy sẽ được thực hiện cho các
người sau đây - y nói, - vì chúng ta còn cùng đi với nhau tới
tận Khartoum. Với ta đó sẽ là một niềm hân hoan khi thấy các
người trên đường đi đã tăng thêm được sự khôn ngoan và đức hạnh.

Y đi tới chỗ đống lửa, cúi xuống với sự chậm chạp oai vệ của một
người phì nộn, rồi đi trở lại với hai cái que đã cháy ra than
một nửa mà y đặt xuống thành hình chữ thập - Những tên thầy tu
tập hợp lại khắp chung quanh để dự lễ kết nạp những tín đồ mới
cải đạo trong giáo hội Hồi giáo. Ở bên trên họ những cái cổ dài
và những cái đầu ngạo mạn của những con lạc đà đang lắc lư một
cách thanh thản :

- Bây giờ - tên thày giảng nói tiếp, tiếng nói của y đã mất cái
giọng hòa hoãn và khuyên lơn- đã tới giờ rồi. Trên mặt đất dày
này ta đã dùng hai cái que này làm vật tượng trưng mơ hồ và dị
đoan cho cái tôn giáo cũ của các người. Các người sẽ dẫm chân
lên chúng, tức là dấu hiệu là các người đã từ bỏ đạo; các người
sẽ hôn kinh Coran, tức là dấu hiệu là các người đã chấp nhận nó;
và tất cả sự giáo huấn bổ sung và các người cần có sự ban cho
các người sau này.

Các tù nhân đã đứng dậy: bốn người đàn ông và ba người đàn bà
này đang ở trong giờ phút quyết định của số phận họ. Có lẽ trong
tất cả mọi người chỉ có cô Adam và bà Belmont là có lòng xác tín
vững mạnh về tôn giáo. Cả bảy người bọn họ đều là những đứa con
của thế giới này, và một vài người đã phủ nhận tất cả những gì
được tượng trưng bởi cái biểu tượng đặt trên mặt đất kia. Nhưng
lòng kiêu hãnh của người Âu Châu, lòng kiêu hãnh của giống da
trắng đang sôi sục trong người họ và giữ họ lại trong tín ngưỡng
của các đồng bào họ. Động lực nhân đạo? Động lực tội lỗi? Động
lực phi Cơ đốc? Bất kể động lực nào; nó sẽ biến họ thành những
chứng nhân tử vì đạo của tín ngưỡng Cơ đốc. Trong sự im lặng,
trong sự căng thẳng thành kính của họ, môt tlếng động yếu ớt
bỗng chốc vang lên tới tai họ. Tiếng sì sào của những tàu lá cọ
bên trên đầu họ không ngăn cản được họ nghe thấy từ xa tiếng
chân phi nhanh của một con lạc đà:

- Đây là một việc gì đang tới. - Cochrane nói thì thào - Hay
gắng chần chừ năm phút nữa, Fardet.

Người đàn ông Pháp tiến lên một bước và chào một cách lễ độ bằng
cánh tay bị thương của ông, ông có vẻ như sẵn sàng cho bất cứ
điều gì :

- Anh lại nói với vị thánh nhân là tôi đã hoàn toàn sẵn sàng để
cúi đầu trước lời giáo huấn của ông ấy. Và tôi cũng trả lời thay
cho các bạn của tôi. - ông nói với anh thông ngôn. - Nhưng có
một việc mà tôi muốn nhìn thấy ông ấy làm để loại bỏ tất cả
những nghi ngại có thể còn vướng mắc trong lòng chúng tôi. Mỗi
tôn giáo chân chính đầu tự chứng minh bằng các kỳ tích mà các
môn đồ có thể thực hiện. Ngay chính tôi đây tôi chỉ là một tín
đồ Cơ đốc thấp hèn, tôi cũng có thể làm được một vài phép như
vào tư cách tôn giáo của tôi. Vậy thì ông, vì tôn giáo của ông
cao siêu, chắc chắn là ông có thể thực hiện được nhiều hơn. Và
tôi yêu cầu ông chứng tỏ cho chúng tôi thấy bằng một dấu hiệu
Hồi giáo là tôn giáo.

Bọn Ả Rập đã cố sức chứng tỏ là đàng hoàng và kín đáo, nhưng
chúng cũng rất hiếu kỳ. Sự im lặng bao trùm lên những kẻ đang
lắng nghe chứng tỏ rằng những lời nói của Fardet do Mansoor dịch
lại đã làm chúng xúc động:

- Những việc như thế đều nằm trong tay đấng Allah. - tên thầy
giảng trả lời. - Chúng ta không có quyền đi ngược lại các luật
lệ của Ngài. Nhưng nếu chính bản thân ngươi có các quyền năng mà
ngươi tự gán cho mình, chúng ta sẽ vui lòng làm nhân chứng cho
việc này.

Người đàn ông Pháp tiến lên, giơ một bàn tay ra quả chà là lớn
kếch sù ông nuốt chửng quả chà là này, và ngay sau đó lấy ra một
quả khác từ khuỷu tay trái của ông. Ông đã thường chơi cái trò
tiểu xảo này trên tàu Korosko, và các bạn đồng hành thường cười
nhạo ông, vì ông đã không đủ khéo léo để lừa gạt được tinh thần
phê phán của những người Âu Châu. Nhưng lúc này họ tự hỏi liệu
cái trò ảo thuật này có phải là nhân tố quyết định mà số mạng
của tất cả bọn họ đang tùy thuộc vào. Một tiếng xì xào của sự
kinh ngạc nổi lên từ đám người Ả Rập, và tiếng xì xào tăng lên
gấp đôi khi người đàn ông Pháp lấy ra từ lỗ mũi một con lạc đà
một quả chà là khác và ném nó lên trên không, và không thấy nó
rơi xuống nữa, hay ít nhất hình như nó không rơi xuống nữa. Cái
ống tay áo rộng ngoác của ông đã nhìn thấy rất rõ với các bạn
ông. Nhưng ánh sáng lúc chiều tà đã phù trợ cho cái tài để mua
vui trong lúc trà dư tửu hậu của ông. Đám người dự khán đã quá
say mê, quá vui thích đến nỗi họ chú ý rất ít tới một kỵ sĩ mà
con lạc đà đang phi nước đại ở gia những cây cọ. Tất cả mọi việc
sẽ có thể kết thúc đẹp đẽ nếu Fardet đang sảng khoái vì sự thành
công, không muốn bắt đầu lại trò ảo thuật của ông.

Quả chà là rơi ra khỏi bàn tay ông, và sự lừa bịp đã rõ ràng.
Ông muốn chuyển ngay sang một trò khác, nhưng tên thầy giảng nói
một vài tiếng và một tên Ả Rập đánh vào bả vai Fardet môt nhát
cán giáo :

- Khá đủ trò trẻ nít rồi - Tên thầy giảng gầm lên trong cơn giận
dữ. - Chúng ta là người lớn hay là trẻ nít mà để các ngươi lừa
gạt bằng cách này? Đây là cây thánh giá kinh Coran, các ngươi
quyết định thế nào?

Fardet nhìn quanh mình với vẻ tuyệt vọng:

- Tôi không thể làm gì hơn nữa, ông yêu cầu tôi năm phút, ông có
năm phút rồi. - Ông nói với đại tá Cochrane:

- Và có lẽ chúng cùng sẽ đủ đó, - ông đại tá trân lời - Những
tên tù trưởng kia … .

Tên kỵ sĩ mà họ đã nghe thấy từ xa đi về phía hai tên chỉ huy Ả
Rập để trình chúng một báo cáo ngắn gọn trong khi lấy tay chỉ về
hướng mà hắn vừa từ đó tới. Hai tên tù trưởng trao đổi vài câu.
rồi đi tới chỗ những tên thầy tu đứng vây quanh các tù nhân. Lão
già hung hăng giơ một bàn tay lên và nói một câu ngắn gọn với
một gịong cục cằn; những tên Ả Rập đáp lại bằng một thứ tiếng
như chó sủa; nom chúng giống như một lũ chó săn trước tên thợ
săn chỉ huy đàn chó, ánh lửa lấp lánh trong cặp mắt hách dịch
của y đã truyền sang những tên đang nhìn y. Tới lúc đó mới đong
thở phát lộ ra sức mạnh và sự nguy hiểm của phong trào bởi những
bộ mặt bị co rúm vì sự đam mê, vì những khí giới được vung vẩy
trên tay này, vì những tâm hồn cuồng tín này; chúng không đòi
hỏi gì khác ngoài một cái chết đẫm máu, với điều kiện là nhanh
tay chúng trước hết phải được vấy máu :

- Các tù nhân có chịu theo lòng tin chân chính không? - Tù
trưởng Abderrahman hỏi trong khi cặp mắt độc ác của y nhìn chòng
choc vào họ .

Tên thày giảng đã có một danh tiếng tốt để gĩư gìn, hắn không
chịu thú nhận sự thất bại :

- Chúng sẽ cải đạo khi … :

- Này thầy giảng, hãy để việc này lại đó.

Y phát ra một hiệu lệnh. Tất cả những tên Ả Rập đều nhảy lên
lưng lạc đà. Tù trưởng Wadlbrahlm đi khỏi ngay tức thì cũng với
phân nửa người của nhóm y. Những tên khác ngồi yên trên lạc đà,
súng cầm trong tay:

- Chuyện gì xảy ra vậy? - Belmont hỏi :

- Những toán quân của chúng ta kéo lên rồi! - ông đại tá kêu
lên. - Nhờ ơn trên phù hộ, tôi nghĩ rằng chúng ta sắp thoát nạn
rồi. Toán quân lạc đà ở Ouadl-haifa tiến sâu vào theo dấu vết
của chúng ta :

- Làm sao ông biết việc này?

- Ông muốn rằng ai đã báo động cho họ như thế?

- Ông đại tá, ông thật sự tin rằng chúng ta sắp được giải cứu à?
- Sadle thổn thức nói .

Sự chìm đắm vào nỗi bất hạnh đã làm tê cóng thần kinh của họ đến
mức hình như họ không có thể thấy được những cảm giác mạnh,
nhưng sự hồi phục đột ngột của niềm hy vọng lại đem tới cho họ
sự đau khổ và lo âu. Chính ngay Belmont cũng tràn đầy những nghi
ngại. Lo sợ ông đã hy vọng ngược lại tất cả mọi hy vọng. Lúc này
sự hiện thực của các ước mong của ông đã tới gần lại làm cho ông
run sợ:

- Tôi hy vọng là họ sẽ tới với quân số đông. - Ông nói. -
Saprletl, nếu viên tư lệnh chỉ gởi tới một liên đội yếu ớt thì
phải đưa ông ta ra hội đồng chiến tranh? Dù sao thì chúng ta
cũng nằm trong tay của thượng đế.

Bà vợ ông nói với vẻ bình tĩnh:

- Anh John thân quý, hãy quỳ xuống với em; có lẽ đây là lần cuối
cùng; vợ chồng ta hãy cầu nguyện cho dù ở trên trời hay ở dưới
đất chúng ta cũng sẽ không xa cách nhau :

- Không! Xin các vị đừng quỳ! - ông đại tá hét lên lo sợ vì ông
trông thấy tên thày giảng đang nhìn họ .

Đã quá trễ rồi. Hai người công giáo La Mã đã quỳ xuống và đã làm
dấu thánh giá. Sự giận dữ làm đỏ bừng mặt tên thầy giảng Hồi
giáo khi hắn nhìn thấy bằng chứng công khai về sự thất bại của
hắn. Hắn quay đi và nói :

- Đứng lên. Hãy đứng dậy - tên Mansoor quát bảo - ông ấy xin
phép giết các vị đó:

- Thì hắn cứ việc làm việc gì hắn thích đi! - Người đàn ông
bướng bỉnh Ái Nhĩ Lan trả lời - Chúng tôi sẽ đứng dậy khi các
bài kinh của chúng tôi chấm dút, không đứng dậy trước!

Tên tù trưởng vừa nghe tên thày giảng nói vừa phóng cái nhìn hắc
ám của hắn vào hai cái bóng đang quỳ. Hắn ra những mệnh lệnh.
Bốn con lạc đà được dẫn tới. Những con lạc đà chở đồ mà không
được dùng để cưỡi vẫn không được đóng yên và vẫn ở lại chỗ mà
chúng bị cột :

- Đừng có ngốc, Belmont! - ông đại tá nói lớn. - Tất cả đều tùy
thuộc vào tâm trạng mà chúng ta sẽ tạo ra cho chúng. Đứng dậy
đi, bà Belmont! Ông bà chỉ làm cho chúng đứng lên chống lại bọn
ta.

Người đàn ông Pháp nhún vai:

- Trời ơi! - ông kêu lên - Sao lại có một dân tộc cố chấp như
vậy kìa!

Hai phụ nữ Mỹ cũng quỳ xuống bên cạnh bà Belmont :

- Họ giống như những con lạc đà, một con nằm xuống, tất cả những
con khác nằm theo! Thật là kỳ cục!

Nhưng ông Stephens cũng quỳ ở bên canh Sadle. Ông đã giấu bộ mặt
phờ phạc vào hai bàn tay dài và gầy gò của ông. Chỉ còn ông đại
tá và ông Fardet là vẫn đứng thẳng. Cochrane ném một cái nhìn dò
hỏi cho người đàn ông Pháp :

- Dù thế nào, - ông nói. - người ta sẽ ngu ngốc khi cầu nguyện
suốt cả đời, cũng như không cầu nguyên khi mà ta không còn điều
gì khác để hy vọng ngoài lòng thương của đấng tối cao.

Ông để thân mình khuỵu xuống trên hai đầu gối.

Đứng thẳng như một người lính, những cam gục xuống ngực, người
đàn ông Pháp nhìn các bạn của ông cầu nguyện, rồi đôi mắt ông
chuyển sang những nét mặt bực tức của tên tù trưởng và tên thầy
giảng :

- Đồ chó má! - ông làu bàu - Chúng nghĩ rằng một người Pháp lại
có thể sợ hãi?

Rồi vừa làm dấu thánh một cách đường hoàng công khai, ông vừa
quỳ xuống bên cạnh các bạn của ông. Mình mẩy bẩn thỉu, khốn khổ,
quần áo tả tơi, bảy tù nhân trong cái tư thế khúm núm dưới bóng
tối của những cây cọ, đang chờ đợi số phận họ được định đoạt .

Tên tù trưởng quay lại nhìn tên thày giảng với một nụ cười mai
mỉa để chỉ cho hắn thấy kết quả sự thuyết giáo của hắn. Rồi y
ban ra một mệnh lệnh mới. Ngay tức thì bốn người đàn ông bị lũ
thầy tu túm lấy và trói hai cổ tay lại. Fardet rú lên một tiếng
vì sợi dây thừng nghiến vào vết thương của ông. Những người khác
chịu đựng cái luật của kẻ mạnh hơn với vẻ hiên ngang :

- Các ông đã làm hỏng hết cả rồi! Tôi ngậm rằng chính tôi cũng
đã bị các ông sát hại! - Mansoor vừa kêu la vừa vặn vẹo hai bàn
tay. - Các phụ nữ sẽ leo lên ba con lạc đà này:

- Không bao giờ? - Belmont phản kháng - Chúng tôi sẽ không để bị
chia cách.

Ông xông lên như một thằng điên, nhưng sự đói khát, thiếu thốn
đã làm ông yếu đi, và hai tên Ả Rập khỏe mạnh nắm lấy tay gì ông
lại:

- John, đừng tự làm khổ mình. - bà vợ ông nói lớn trong khi
chúng đẩy bà tới chỗ con lạc đà. - Không có sự tệ hại nào chờ
đợi em đâu. Đừng cựa quậy nữa! Bằng không chúng sẽ giết anh đó!

Bốn người đàn ông sợ run lên khi họ trông thấy những người đàn
bà đang đi xa dần. Tất cả những sự lo sợ của họ đã không có một
chút nào khi ở bên cạnh mấy người đàn bà. Sadle và bà cô của
nàng có vẻ gần như ngất xỉu đi vì kinh họàng Chỉ có bà Belmont
là còn giữ được nét mặt quả cảm. Một khi đã được nâng lên trên
lưng những con lạc đà rồi, họ được đưa tới dưới cái cây mà bốn
người đàn ông đang đứng ở phía sau :

- Tôi có một khẩu súng lục trong túi áo. - Belmont nói với bà vợ
- Tôi sẽ hy sinh tính mạng để có thể đưa nó cho mình:

- Cứ giữ lấy nó, john. nó còn có thể dùng được. Em không sợ gì
cả. Từ lúc chúng ta cầu nguyện, em có cảm tưởng là các vị thần
hộ mạng đang che chở cho chúng ta bằng những đôi cánh của các
ngài .

Chính ngay bà trông cũng giống như một vị thần hộ mệnh vì bà
đang quay lại phía cô Sadle run rẩy và thì thầm nói với cô một
vài lời đầy hy vọng và khích lệ.

Tên Ả Rập nhỏ bé, lùn chỉ huy toán hậu vệ của Wadlbrahlm đi tới
gặp tên tù trưởng và tên thày giảng, cả ba tên vừa bàn bạc với
nhau vừa liếc mắt nhìn về phía các tù nhân. Rồi một tên tù
trưởng nói với Mansoor:

- Ông chỉ huy muốn biết ai là người giàu nhất trong bọn các ông?
- Tên thông ngôn nói .

Những ngón tay của hắn ngọ nguậy với một vẻ nóng nảy điên cuồng
và hắn luôn luôn lau mồ hôi trên trán :

- Tại sao hắn lại muốn biết? - ông đại tá hỏi :

- Tôi không biết tại sao:

- Nhưng đó là sự hiển nhiên mà! - ông Fardet nói lớn - Hắn muốn
biết ai là người giàu nhất để giữ người đó lại hòng đòi tiền
chuộc! :

- Tôi nghĩ là chúng ta phải cùng nhau xem xét vấn đề này - ông
đại tá nói - ông Stephens này, chính ông nên khai ra, vì chắc
chắn ông là người giàu nhất trong bọn:

- Có thể vậy - ông luật sư trả lời - Nhưng bất kỳ trong trường
hợp nào tôi cũng không mong được xếp vào một loại riêng biệt .

Tên tù trưởng lại cất tiếng với một giọng khắc nghiệt :

- Ông ấy nói - Mansoor thông dịch, - rằng những con lạc đà chở
đồ đã mệt lử, và nay chỉ còn duy nhất một con là có thể tiếp tục
lên đường. Ông ấy để thuộc quyền sử dụng của một người trong bọn
các ông, và ông ấy để các ông có quyền lựa chon. Người giàu nhất
trong bọn các ông sẽ được ưu tiên :

- Hãy trả lời hắn rằng tất cả bọn chúng ta đều giàu bằng nhau:

- Trong trường hợp này, ông ấy nói là các ông phải chon ngay
người nào sẽ có con lạc đà :

- Còn những người khác?

Anh chàng nhún vai :

- Đuợc - ông đại tá nói- Này các bạn, nếu chỉ có một người trong
bọn chúng ta được thọát nan, thì tôi nghĩ rằng các bạn sẽ đồng ý
với tôi người đó sẽ là Belmont, bởi vì ông ấy đã có vợ:

- Phải, phảI! Người đó phải là ông Belmont! - Fardet nói :

- Tôi cũng nghĩ thế - Stephens nói .

Nhưng người đàn ông Ái Nhĩ Lan không muốn nghe :

- Không, chia đều - ông nói lớn - Chúng ta sẽ cùng chết hoặc sẽ
cùng được giải cứu tất cả, và quỷ sứ bắt kẻ nào thối chí!

Một cuộc thi đấu ngoan mục về tính bất tự kỷ diễn ra sôi nổi.
Một người nào đó nói rằng ông đại tá nên đi, vì ông là người già
nhất. Cochrane trở nên giận dữ :

- Người ta có thể nghĩ rằng tôi là ông già tám mươi - ông phản
đối - sự nhận xét này đã hoàn toàn lỗi thời rồi :

- Này. - Belmont nói. - tất cả chúng ta đều từ chối không :

- Đó không phải là điều khôn ngoan lắm! - Người đàn ông Pháp nói
lớn - Các bạn hãy nghĩ xem! Thế là để cho các bà ở lại một mình
à? Một người trong bọn ta phải ở gần các bà ấy để giúp ý kiến
cho họ, đó là điều vô cùng tốt đẹp .

Họ nhìn nhau bối rối. Rõ ràng là Fardet đã nói đúng. Nhưng làm
sao mà một người trong bọn họ lại có thể bỏ rơi các bạn của
mình? Tên tù trưởng nói xen vào để đề nghị một giải pháp :

- Ông chỉ huy nói. - Mansoor nhắc lại. - nếu các ông không thể
tự quyết định được: chỉ còn có cách dành sự quyết định lại cho
đấng Allah và phải rút thăm :

- Tôi không thấy giải pháp nào tốt hơn nữa. - ông nói .

Ba người bạn của ông cũng đồng ý .

Lúc đó tên thầy giảng chìa ra cho họ bốn miếng vỏ cây cọ và giữ
một đầu của chúng lại trong các ngón tay :

- Ông ấy nói ai rút được miếng dài nhất sẽ được cưỡi con lạc đà.
- Mansoor thông dịch :

- Chúng ta đồng ý, một cách nghiêm chỉnh làm theo như vậy không?
- Cochrane hỏi các bạn của ông .

Họ đều hứa sẽ làm vây .

Bọn thầy tu đã làm thành một vành bán nguyệt phía trước họ. Ngọn
lửa trại chiếu ánh sáng đỏ của nó vào những diễn viên của màn
kịch và vào các khán giả. Tên tù trưởng phòng rời mặt khỏi toán
tù nhân. Đằng sau bốn người đàn ông là một hàng lính gác. Đằng
sau những tên lính gác này là ba người đàn bà đang ngồi trên
lưng lạc đà xem màn kịch. Với một nụ cười quái ác, tên thầy
giảng đi tới gần Belmont. Người đàn ông Ái Nhĩ Lan không thể nào
khỏi thốt ra một tiếng rên rỉ làm cho bà vợ của ông cũng rên rỉ
theo, vì miếng vỏ cây ông rút được nhỏ xíu. Người đàn ông Pháp
rút được một miếng dài hơn một chút. Ông đại tá rút được một
miếng dài gấp hai lần cả hai miếng kia hợp lại. Miếng của
Stephens cùng vào cỡ miếng của Belmont. Đại tá Cochrane là người
thắng cuộc trong trò chơi xổ số khủng khiếp này :

- Tôi sẵn lòng đổi chỗ của tôi cho ông đó, ông Belmont ạ - ông
lầm bầm nói - Tôi không có vợ cũng không có con. Họ hàng chỉ có
vài người. Anh hãy đi với vợ ông đi! Tôi sẽ ở lại :

- Tuyệt đối là không. Một giao ước là một giao ước. Tất cả đều
phải trung thực :

- Ông tù trưởng ra lệnh ông phải leo lên ngay tức thì. - Mansoor
nói .

Một tên Ả Rập dẫn ông đại tá hai tay vẫn bị trói tới chỗ con lạc
đà đang đứng:

- Hắn sẽ ở với toán hậu vệ - tên tù trưởng nói với tên phụ tá
của hắn - Anh cùng sẽ trông coi những người đàn bà cùng đi với
anh :

- Còn con chó thông ngôn này?

- Với những tên kia?

- Và những tên kia?

- Khử đi!

Hãy cảm ơn bài viết của donka bằng cách bấm vào "" ở bên dưới nhé!!!

Về Đầu Trang Go down

https://dlthanh.forumvi.com

donka
donka

//dondonitt

Tổng số bài gửi : 143
Points : 425
Reputation : 25
Join date : 06/06/2011

Bài gửiTiêu đề: Re: Tấn Thảm Kịch Của Tàu korosko Tấn Thảm Kịch Của Tàu korosko Icon_minitimeThu Jun 09, 2011 11:01 am

Chương 9:

Vì không có ai trong ba tử tội hiểu tiếng Ả Rập cả, lệnh của tên
tù trưởng sẽ chẳng có ý nghĩa gì đối với họ khi không có sự
phiên dịch của Mansoor. Sau những trò phản phúc, những sự khom
lưng, quỳ gối và sự bôi bác của hắn ta, anh chàng thông ngôn
khốn khổ thấy rằng những sự lo sợ tệ hại của hắn sắp trở thành
hiện thực. Vừa thốt ra một tiếng rú kinh họàng, con người khốn
khổ đó vừa nằm phục xuống, mặt úp xuống đất và níu lấy vạt áo
của tên tù trưởng. Tên này thấy khó mà gỡ ra khỏi sự nắm gĩư
điên cuồng nên đã cho hắn một cái đá dữ dội. Cái khăn bịt đầu đỏ
của anh thông ngôn bay tung lên trời. và Mansoor nằm rên rỉ và
ẻo lả ngay tại chỗ mà cái đá của tên Ả Ráp vừa xô hắn tới Lúc đó
trại binh tràn ngập một sự xao động điên cuồng. Tên tù trưởng
già leo lên lưng con lạc đà của y. Một vài tên trong toán của y
phóng đi không còn chờ đợi để nhập bọn với các bạn của chúng.
Tên phụ tá béo lùn, tên thày giảng và hơn hai chục tên thầy tu
vây quanh các tù nhân. Chúng vẫn còn đi bộ, vì chúng đã được
lệnh hành quyết ba người tù. Khi nhìn chúng, Belmont, Stephens
và ông Fardet biết rằng họ chỉ còn vài phút nữa để sống thôi.
Tay họ vẫn còn bị trói, nhưng bọn lính canh đã thôi không gĩư
tay họ nữa. Do đó cả ba người đều quay đầu lại để chào vĩnh biệt
mấy người đàn bà :

- Bây giờ thì tất cả đều chết rồi, Norah ạ! - Belmont nói -
Chúng tôi không có vận may, vì hy vọng đã tới rất gần. Mặc kệ!
Chúng tôi đã làm hết sức mình .

Đây là lần đầu tiên bà vợ của ông bị suy sụp tinh thần. Bà khóc
thổn thức, giấu mặt vào hai bàn tay :

- Đừng khóc, em yêu của anh ! Chúng ta đã cùng hưởng sung sướng
rồi. Em hãy chuyển tất cả lòng kính mến của anh tới các bạn của
chúng ta. Hãy nhớ lại cho anh kỷ niêm tốt đep của Amy Mocarthy
và gia đình Bịessmgtn. Em sẽ có đầy đủ mọi thứ để sống nhưng anh
muốn nhắc em nên hỏi ý kiến của Rodger trong việc đầu tư của em.
Chớ quên điều đó ! :

- ôi John. không có anh em sẽ không sống được. 1 sự u buồn mà
người đàn ông ái Nhĩ Lan cũng cảm thấy trong nỗi đãu buồn của bà
vợ đã bắt ông khuất phục; ông gục đầu xuô'ng và tựa nó trên cái
hông đầy lông của con lạc đà. Cả hai vợ chồng cùng bắt đầu khóc.

Trong lúc đó Stephens tiến lại gần Sadle. Trong bóng tối chang
vạng của lúc họàng hôn, nàng trông thấy bộ mặt gày ốm và nghiêm
trọng của ông ngẩng lên về phía mình :

- CÔ đừng lo sợ cho bà cô của cô, và cả cho cô nữa. Ông nói Tôi
tin chắc rằng bà và cô sẽ được giải cứu: đại tá Cochrane sẽ săn
sóc cho hai người. Những người Ai Cập không thể ở xa phía sau.
Tôi hy vọng là bà và cô sẽ cô thể uống nước trước khi rời khỏi
những cái giếng. Tôi rất muốn đưa cho bà cô của cô cái áo ngoài
của tôi. vì chiều nay trời sẽ lạnh. Nhưng với những sợi dây trói
này tôi nghĩ rằng tôi sẽ không thể cởi nó ra. Nói với bà ấy hay
gĩư lại một ít bánh dự trữ để sáng .

Ông nói một cách rất bình tĩnh; người ta có thể nói đó là một
người đang sắp xếp các chi tiết cho một cuộc đi cắm trại ngoài
trời - một cảm gíac bất chấp. Sự mến phục lối cư xử điềm tĩnh
của người đàn ông sắp phải chết đã tràn ngập trong tim sôi động
của Sadle:

- Ông thật là tử tế ! Nàng kêu lên Tôi chưa bao giờ gặp được một
người như ông. Người ta nói về các vị thánh. nhưng lúc này ông
đang đứng trên ngưỡng cửa .

tử thần, mà ông chỉ nghĩ tới chúng tôi ?

- CÔ Sadle ạ, tôi muốn nói với cô một tiếng cuối cùng nếu cô cho
phép. Như vậy tôi sẽ chết môt cách sung sướng hơn ! Nhiều khi
tôi đã muốn nói với cô, nhưng tôi lại nghĩ có lẽ cô sẽ cười vào
mũi tôi, vì không bao gìơ cô nhìn các sự việc môt cách quá
nghiêm túc, phải vậy không? Với tính vui vẻ của cô thì việc đó
cũng rất tự nhlên thôi, nhưng đối với tôi thì việc đó rất quan
trong. Lúc này tôi đã là một người chết rồi, do đó những gì tôi
nói không quan trọng lắm nữa:

- ồ có chứ. ông Stephens :

- Tôi sẽ im tiếng, nếu vịệc nghe tôi nói làm cho cô khó chịu.
Như tôi đã nói với cô, tôi sẽ chết sung sướng hơn. Nhưng tôi
không muốn tỏ ra tôi là kẻ ích kỷ; nếu .

tôi nghĩ rằng những lời nói của tôi sau đây sẽ làm u ám cuộc
sống của cô, hoặc sẽ trở thành một kỷ niệm tệ hại cho cô, tôi sẽ
không nói một tiếng nào nữa:

- ông muốn nói gì với tôi?

- Một cách đơn giản là tôi yêu cô biết bao. Tôi đã mãi mãi yêu
cô từ lúc ban đầu tôi đã cảm thấy mình là một người khác khi tôi
đứng với cô. Nhưng thật là vớ vẩn, chắc chắn thế! Tôi biết rõ
điều này. Tôi đã không nói gì cả. và tôi đã cố không làm cho tôi
trở thành lố bịch: nhưng tôi muốn rằng cô biết việc đó, lúc này
thì việc đó không còn quan trọng nữa. CÔ sẽ hiểu rằng tôi thật
lòng yêu cô khi tôi nói với cô rằng nếu đó chỉ là việc tôi nhìn
thấy cô khổ sở và lo lắng, thì hai ngày vừa qua. trong đó chúng
ta đã không rời xa thau, đã là những ngày sung sướng nhất trong
đời tôi.

CÔ thiếu nữ vẫn tái mét, lăng lẽ, nhìn với con mắt ngạc nhiên bộ
mặt đang quay về phía mặt nàng. Nàng không biết phải làm gì, nói
gì trước mối tình đang tỏa ra ánh lửa quá sáng tỏ trong bóng tối
của tử thần. Với trái tim thơ ấu của nàng. tất cả những điều này
không thể hiểu được; tuy nhiên nàng cũng cảm thấy sự êm dịu .

và tươi đep của nó :

- Tôi sẽ không nói một điều gì khác với cô: Stephens nói tiếp -
Tôi thấy là cô đang bối rối, nhưng tôi muốn cô phải biết. Bây
gìơ thì cô biết rồi, tất cả đều tốt đẹp. Cám ơn cô đã nghe tôi
nói một cách rất lịch sự và nhiều kiên nhẫn. Chào cô, cô Sadle
bé nhỏ! Tôi không thể giơ bàn tay lên được; cô có thể hạ thấp
bàn tay cô xuống được không?

Nàng chìa một bàn tay ra cho ông Stephens đặt môi ông vào bàn
tay nàng. Rồi ông quay đi, trở lại chỗ cũ giữa Belmont và
Fardet. Trong suốt cuộc đời tranh đấu .

và thành công, chưa bao giờ ông cảm thấy một niềm hân hoan trầm
lặng như gìơ phút này, khi mà ông sắp chết. Không có gì để tranh
cãi về tình yêu. Nó là yếu tố thắm thiết nhất của đời sống con
người . Nó là thứ làm lu mờ và biến đổi tất cả mọi yếu tố khác.
Nó là yếu tố duy nhất đã được tuyệt đối vẹn toàn. Sự đau đớn trở
thành .

một khọái lạc. Sự cùng quẫn trở thành một nguồn an ủi. Cái chết
là tất cả sự êm ái khi mặt trăng óng ánh vàng này tô điểm hào
quang cho một con tim. Trước mặt những tên sát nhân, Stephens có
thể ca hát vui vẻ. Thật tình ông đã không có thì giờ để nghĩ tới
chúng. Điều quan trọng, sự kỳ diệu và chân quý là nàng sẽ không
còn coi ông như một người bạn tình cờ. Suốt cả cuộc đời, nàng sẽ
nghĩ tới ông. Nàng sẽ biết .

Con lạc đà của đại tá Cohrane đi hơi xa xa phía bên, và viên sỹ
quan già mà hai tay đã được cởi trói lặng nhìn quang cảnh và với
tính bướng bỉnh cố hữu của ông, tự hỏi có thật sự phải từ bỏ mọi
hy vọng không Ông biết chắc rằng bọn ả Rập tâp hợp hung quanh
các nạn nhân vẫn ở đằng sau, còn những tên khác đã leo lên lưng
lạc đà rồi sẽ phụ trách việc canh gĩư ba người đàn bà và ông.
Ông không thể hiểu tại sao các bạn ông lại chưa bị chém cổ. Với
sự tinh vi trong tính độc ác của người Đông phương, không chừng
toán hậu vệ sẽ chờ cho tới lúc những lính Ai Cập tới thật gần
mới ra tay .

chăng? Những cái xác còn nóng hổi của các nạn nhân sẽ là một sự
lăng nhục đối với những kẻ truy sát chúng Phải. chác chắn sự
giải thích này là đúng, ông đại tá đã .

từng nghe nói về những thủ đoạn như vậy. Nhưng trong trường hợp
này sẽ không có quá mười hai tên ả Rập đi kèm các tù nhân. Trong
bọn chúng không có tên nào có thể trở thành một đồng minh à?

Nếu Tippy Tilly và sáu người trong bọn y có mặt tại đó? Và nếu
Belmort có thể gỡ tay khỏi dây trói và cầm lấy khẩu súng lục của
ông thì may ra họ có thể chạy thoát được. Ông đại tá vặn vẹo cái
cổ nhưng lại càu nhàu thất vọng. Ánh lửa đã chỉ cho ông thấy
những cái đầu của bọn lính canh. Bọn này tất cả đều là dân Ả Rập
baggaras mà không ai có thể hy vọng ở lòng thương người hoặc ở
việc chúng tự để cho mình bị hủ hóa. Chắc là Tippy Tilly và
những tên khác đã phải đi trong toàn dẫn đầu. Đây là lần đầu
tiên viên sĩ quan già đành bỏ rơi tất cả mọi hy vọng:

- Tạm bịêt các bạn! Xin Thượng đế ban phước lành cho các bạn!
ông nói lớn .

Một tên da đen tới kéo cái rọ mõm của con lạc đà của ông. Mấy
người đàn bà tiến lên đằng sau ông, họ buồn khổ quá không thể
nói năng gì. Đối với ba người đàn ông còn đứng lại thì sự khởi
hành của họ lại là một sự nhức nhối trong lòng:

- Tôi rất sung sướng là các bà ấy đã đi khỏi . Stephens nói từ
đáy lòng mình :

- Phải, như thế còn tốt hơn - Fardet nói lớn - nhưng chúng ta
còn phải đợi bao lâu nữa đây?

- Rất lâu hơn nữa? Belmont trả lời với một giọng cay đắng .

Bọn Ả Rập vây kín quanh họ Ra tới rìa ốc đảo: ông đại tá và ba
người đàn bà quay đầu lại phía những thân cây cọ. Họ nhìn thấy
đống lửa đã tàn. Bên trên toán người ả Rập họ nhận ra ba cái mũ
trắng. Rồi những con lạc đà của họ bắt đầu chạy nước kiệu. Khi
họ liếc lại phía sau một cái nhìn cuối cùng, khu rừng cọ chỉ còn
là một khối tối sẫm với sắc lập lòe mông lung của đôi chút ánh
sáng ở khoảng gĩưa.

Trong lúc họ nhìn với những con mắt khẩn cầu cái chấm đỏ trong
lành tối tăm này thì họ cũng vượt qua cái bờ của lòng chảo; ngay
tức thì bãi sa mạc mông mênh được .

ánh trăng soi sáng đã bao trùm lên họ với sự im lặng của nó. Và
ốc đảo đã biến khỏi tầm nhìn của họ. Ở mọi phía bầu trời xanh êm
như nhung lốm đốm những vì .

sao sà xuống phía bình nguyên bao la họang dã. Bầu trời và mặt
đất đã trộn lẫn với nhau ở chân trời. Bị tuyệt vọng quá, những
người đàn bà không còn đủ can đảm để nói chuyện nữa. Ông đại tá
cũng im tiếng luôn: ông có thể nói cái gì đây? Bỗng dưng cả bốn
người đều giật nẩy mình lên trên yên của họ, và Sadle sế nén một
tiếng kêu buồn khổ. Trong bóng đêm một phát súng đã nổ phía sau
họ. Có một phát nữa. Rồi nhiều phát nữa. Và cuối cùng thì những
tiếng nổ ngưng hẳn :

- Có lẽ đó là những người Ai Cập, những cứu tinh của chúng ta !
- Bà Belmont kêu lên -Đại tá Cochrne. ông không tin rằng đó là
những người Ai Cập à?

- Có có ! Sadle ấp úng nói. Đó phải là những người .

ông đại tá đã lắng nghe một cách chăm chú, nhưng tất cả đều trở
lại im lìm. Lúc đó, với một dáng điệu nghiêm trang, ông bộc lộ
tâm tình. Ông nói:

- Bà Belmont ạ, thật là vô ích khi chúng ta tự lừa dối mình.
Chúng ta phải chấp nhận sự thật. Các bạn của chúng ta đã rời bỏ
chúng ta, nhưng họ đã chết như những .

người dũng cảm:

- Nhưng tại sao chúng lại bắn súng? Chúng đã có những ngon giáo
của chúng mà .

Bà run rẩy toàn thân:

- Đúng thật vậy. - ông đại tá nói - Để đổi lấy bất kỳ vật gì
trên đời tôi cũng không muốn làm mất niềm hy vọng thực tế của
bà; nhưng ngược lại tốt nhất là dù sao .

hãy đặt cho chúng ta một sự thất vọng phũ phàng. Nếu chúng nghe
thấy một cuộc tấn công thì chúng ta cũng phải nghe thấy một sự
phản kích. Ngoài ra, nếu những .

lính Ai Cập đã tấn công, thì họ đã phải tấn công với lực lượng
lớn. Thật thế. Như bà đã nói, đúng là hơi kỳ quái khi họ đã phí
hoài những viên đạn. Lạy chúa tôi, hãy .

nhìn kìa.

ông duớn thẳng tay về hướng Đông. Hai bóng người đang di chuyển
trên sa mạc. Hai cái bóng lén lút mau lẹ của họ nổi bật rõ ràng
hơn trên mặt đất. Họ trông thấy chúng leo lên và tụt xuống ở
những nơi gồ lên, xẹp xuống của địa hình. Chúng biến đi và hiện
ra sau đó dưới ánh sáng mập mờ. Chúng lẩn tránh bọn ả Rập. Rồi
chúng .

dừng lại trên đỉnh một đồi cát. Lúc đó các tù nhân phân biệt
được chúng một cách rõ ràng. Đó là hai người đàn ông ngồi trên
lưng lạc đà; nhưng chúng ngồi bỏ chân ra .

hai bên, như một kỵ sĩ trên lưng ngựa vậy :

- Những lính cưỡi lạc đà của Ai Cập ! ông đại tá :

- Họ chỉ có hai người! Có Adams nói thầm thào với một giong thảm
sầu :

- Đó chỉ là những tên xích hầu, thưa cô! Họ đã tung ra các toán
tuần thám trên suốt bề rộng của sa mạc. và đây chỉ là một toán?
Đại bộ phận lực lượng không ở cách xa quá mười lăm cây số. Họ sẽ
cho lính báo động. Những người lính lạc đà già, dũng cảm!

Ông đại tá dè dặt là thế, đúng mực là thế. mà cũng khó có thể
nói ra lời, nhất là khi ông bực bội. Một ánh chớp đỏ chiếu sáng
trên đỉnh cái đồi, rồi một cái chớp .

thứ hai. Tiếng súng nổ lốp đốp tiếp theo. Hai cái bóng tan biến
một cách cũng lặng lẽ và mau lẹ như hai con cá hồi trong một
dòng nước chảy mạnh.

Bọn ả Rập đã dừng lại; chúng ngán ngẩm không muốn làm gián đoan
cuộc hành trình để chạy đuổl theo hai cái bóng nọ. Nhưng bây gìơ
thì chúng không còn gì để đuổi theo nữa, vì ở gĩưa những cồn cát
nhấp nhô, những tên xích hầu đã có thể đi theo bất kỳ hướng nào.
Tên tù trưởng phi nước đại quay trở lại, ra các mệnh lệnh. Những
con lạc đà tăng tốc bước đi. Những hy vọng của các tù nhân khi
đó đã bị loãng đi trong những cái lắc lư khủng khiếp mà họ phải
chịu. Những người đàn bà cố hết sức bám chặt lấy cái núm yên,
ông đại tá cũng gắng kiệt sức như họ. Nhưng ông luôn luôn rình
rập một cách thèm thuồng dù là một dấu hiệu nhỏ nhặt của những
người truy kích :

- Tôi nghĩ rằng, Tôi nghĩ rằng. bà Belmont nói - tôi trông thấy
một vật gì đang động đậy phía trước .

Ông đại tá ngồi thẳng dậy trên yên và che mắt tránh ánh sáng
trăng :

- Lạy chúa tôi, bà nói đúng đó. Ở đằng kia có người .

Lúc này thì ông nhìn thấy họ rất rõ ràng: ở phía trước mắt họ
một dãy kỵ binh đang trải dài ra trên sa mạc:

- Họ đi cùng một hướng với chúng ta - Bà Belmont kêu lên. bà có
cặp mắt tinh hơn ông đại tá Cochrane cố nén một lời chửi thề
trong hàng ria mép :

- Hãy nhìn những dấu vết trên mặt đất, ông nói - Chắc chắn đây
là bọn tiền quân của chúng đã rời khỏi ốc đảo trước chúng ta Tên
chỉ huy bắt chúng ta phải .

dùng nước bài chết người này để chúng ta bắt kịp chúng.

Lúc hai bên tới gần nhau, họ nhìn thấy đó đúng là toán quân A
Rập kia. Ngay sau đó tù trưởng Wad Ibrahlm tới gặp tù trưởng
Abdenahman Chúng chỉ về hướng mà .

các xích hầu đã xuất hiên và lắc đầu; rõ ràng là chúng đã có nỗi
bận tâm nghiêm trọng và những linh cảm xấu. Những chiến binh của
sa mạc hợp thành một .

đạo duy nhất đang rục nịch đi về hàng chòm sao chổi thấp, ngay
phía trước họ ở chân trời. Trong nhiều giờ lối chạy nước kiệu
khủng khiếp này cứ tiếp tục. Những .

người đàn bà đang sắp ngất xỉu. Ông đại tá khích lệ họ gĩư vững
tinh thần. và ông luôn luôn quay đãu lại để ngóng trông những
người lính lạc đà. Máu đập mạnh trên thái dương của ông. Ông nói
là ông nghe thấy tiếng trống đồng. Trong cơn mê .

sảng ông nhìn thấy những đám đông lính lạc đà Ai Cập đang cất
bước. Suốt cả cái đêm dài vô tận đó, ông tung ra những tin tốt
lành để rồi tức thì bị đính chính bởi các .

sự việc. Mặt trời lúc mọc lên cũng không tiết lộ được điều gì có
thể an ủi được những kẻ khốn khổ .

Những người đàn bà bị kinh hoàng vì vẻ mặt của người bạn đường
của họ. Ông không còn là vị sĩ quan xuất sắc đã cùng đi với họ
từ Le CAire nữa! Hình như .

tuổi tác đã thình linh đổ ụp lên người ông. Mái tóc ông đã trở
nên trắng như tuyết. Một bộ râu để đã ba ngày, cũng trắng như
tóc ông đã làm lu mờ đường nét cương .

nghị và rõ ràng của cái cằm ông. Các gân máu trên mặt ông phồng
căng lên; những nếp nhăn lên được khơi sâu Lưng ông còng xuống,
đầu ông thấp đi, nhưng trong cơn .

mê sảng, mặc dù sự kiệt sức đang ở ngưỡng cửa của tử thần, ông
vẫn gĩư được vẻ nghĩa hiệp và bao dung khi ông ngoảnh nhìn về
phía ba người phụ nữ. Ông nói với .

họ những lời ngắn gọn, những lời an ủi hay những lời khuyên răn,
ông luôn luôn nhìn về phía sau như hy vọng trông thấy sự tiếp
cứu không bao giờ tới đó.

Một giờ sau khi mặt trời mọc, đoàn người dừng lại. Đã có sự phân
phát thức ăn và nước uống cho tất cả mọi người; sau đó đoàn
người lại lên đường đi về phía Đông .

Nam nhưng với những bước đi khoan thai hơn; nó trải dài bốn trăm
mét trên sa mạc. Cứ xem cái vẻ ngoài vô tư lự và những sự nói
năng huyên thuyên của chúng thì .

chắc chắn là bọn ả Rập nghĩ rằng chúng đã vượt khỏi những kẻ
truy kích chúng. Chúng có ý định quay trở lại sông Nil sau
chuyến đi vòng vèo của chúng tới một nơi .

nằm khá xa phía trên những triền núi Ai Cấp. Phong cảnh biến đổi
dần dần. Chả mấy chốc những hòn đá cuội đã nhường chỗ cho những
núi đá kỳ quái, đen ngòm và cho .

cái thứ cây màu vàng cam mà các tù nhân đã nhìn thấy lúc khởi
đầu chuyến đi thê thảm của họ ở bên phải và bên trái họ những
quả đồi hình chóp, những khe sâu có .

bờ lởm chởm đá đứng dựng lên bên trên những thung lũng cát.
Những con lạc đà tiến bước theo hàng một, đi vòng qua các tảng
đá lên hoặc dùng những bàn chân mềm mại có chất dính như keo để
leo lên những tảng đá có thể làm một con ngựa phải lùi bước.
Đoàn người tiến bứơc một cách lặng lẽ và chậm chạp vào một đường
.

đèo được bao quanh bởi những núi đá đen ngòm và cây vàng. bầu
trời vẽ ra một vòng cầu hẹp bên trên khe núi .

CÔ Adams - người mà đêm dài lạnh lẽo đã thực sự làm cho tê cóng,
nay đã bắt đầu hết cóng dưới cái nóng của mặt trời. Bà nhìn
quanh mình và xoa hai bàn tay :

- Này. Sadle. - bà nói - cô nghĩ là đêm vừa qua cô đã nghe thấy
tiếng cháu, và bây gìơ cô thấy là cháu đã khóc :

- Cháu suy nghĩ đó, cô ạ :

- Này. chúng ta phải cố gắng nghĩ tới những người khác, cháu
cưng ạ. Chớ không phải đến bản thân chúng ta! :

- CÔ ơi cháu không nghĩ đến cháu đâu :

- Có phải đặc biệt đến một người nào không?

- Đến ông Stephens, cô ạ. Ông ấy duyên dáng và dũng cảm biết
bao! Khi cháu nghĩ tới lúc đứng giữa tất cả những tên sát nhân
này mà ông vẫn thu xếp các chi .

tiết nhỏ nhặt cho chúng ta. Ông ấy còn định cởi áo khọác ngoài
ra? Cô ạ, ông ấy là ông thánh và là vị anh hùng của cháu trong
suốt cuộc đời này:

- Thực tình ông ấy đã rũ sạch mọi ưu phiền rồi !

Cô Adams nói với sự cộc cằn của tuổi bà :

- Vậy thì cháu cũng muốn chết theo :

- CÔ không thấy việc đó sẽ có thể giúp được gì cho ông ấy :

- Cháu nghĩ rằng ông ấy sẽ có thể cảm thấy đỡ cô đơn. Sadle vừa
nói vừa để cho cái cằm nhỏ nhắn mỹ miều của nàng trễ xuống.

Trong sự im lặng trở lại, ông đại tá vố trán với một điệu bộ bối
rối :

- Lạy Chúa tôi - ông kêu lên - Tôi phát điên lên .

Trong lúc ban đêm các người bạn phái nữ của ông đã thấy rõ là
ông bị mê sảng, nhưng từ lúc tảng sáng ông có vẻ đã hồi phục
tinh thần. Sự điên đảo vì cơn khủng .

họảng đột ngột này, các bà vẫn cố sẽ làm ông nguôi ngoai bằng
những lời nói ngọt ngào :

- Điên rồi. tôi nói với các bà. Họàn toàn điên rồi! ông quát to
lên với họ. Các bà có biết tôi vừa nhìn thấy cái gì không ?

- Xin ông đừng sợ. Bà Belmont vừa trả lời vừa cho con lạc đà đi
sát lại gần để dịu dàng đặt một bàn tay lên bàn tay ông. Không
có gì là lạ về việc ông đã bị mệt mỏi. Ông đã không ngừng suy
nghĩ và hành đông cho tất cả bọn chúng ta ! Chả mấy chốc chúng
ta sẽ dừng chân, ngủ được một vài giờ sẽ làm ông hoàn toàn bình
tĩnh.

Nhưng ông đại tá lại nhìn lên trời và ông lại thốt ra một tiếng
kêu kinh ngạc :

- Trong đời tôi, chưa bao giờ tôi nhìn thấy cái gì rõ ràng hơn
nữa . ông làu bàu nói - Kìa trên mỏm núi ở phía tay phải chúng
ta, ông Stuart khốn khổ với cái .

khăn phu-la đỏ của tôi quấn trên đầu, đúng hệt như lúc chúng ta
rời xa ông ấy vậy.

Ba người đàn bà ngẩng mặt nhìn về nơi mà ông đại tá chỉ họ. Và
họ cùng thốt lên một tiếng kêu kinh hoàng Trên mạn bên phải của
cái khe sâu khủng khiếp mà .

những con lạc đà đang leo lên, có một cái cạnh sắt đen ngòm chìa
ra như một cái bao lơn có một chỗ nó nhô cao lên để tạo thành
một thứ ngọn núi nhọn nhỏ. Và trên .

ngọn núi đó đứng sững một cái bóng đơn độc im lìm, y phuc họàn
toàn màu đen, nhưng trên đầu lại đội khăn đỏ. Trong bãi sa mạc
của nước Libye chắc chắn là không .

thể có hai cái bóng cùng to lớn và cũng thấp lùn như vậy, hai
khuôn mặt cùng xanh xao như vậy ! Người đó cúi về phía trước và
y hết sức chăm chú quan sát .

nơi đầu cùng của ngọn đèo. Người ta có thể nói đó là một bức
hoạt họa của Napoléon! :

- Có thể nào đó là ông ta không? ông đại tá ấp úng:

- Đúng là ông ấy. Đúng là ông ấy! Những người đàn bà xác nhận.
Trông kìa, ông ấy nhìn về phía chúng ta và ông ấy ra hiệu cho
chúng ta :

- Trời ơi? Chúng nó sẽ giết ông ấy! Cúi thấp xuống, đồ điên
khùng. Nếu không các bà sẽ tự giết mình đó.

Ông đại tá muốn gầm lên nhưng cổ họng ông khô quá không thể phát
ra những tiếng gì khác ngoài tiếng oang Nhiều tên thầy tu cũng
trông thấy như họ sự xuất .

hiện ly kỳ trên chóp núi; chúng đã cầm súng lên tay. Nhưng một
cánh tay dài bất chợt giơ lên từ đằng sau vị mục sư ở Birmmgham.
Một bàn tay nâu nắm lấy quần .

của ông, và ông biến mất như trong một trò ảo thuật.

Ngay ở phía dưới, tù trưởng Abderrahman, sau khi nhảy lên một
tảng đá lớn, bắt đầu la hét và vung vẩy cánh tay. Nhưng những
lời quát tháo của hắn bị chìm đi trong .

một loạt dài những tiếng súng bắn ra từ hai bên bờ khe sâu. Ngọn
núi có hình một pháo đài có những nòng súng nhô ra, những khăn
bịt đầu màu đỏ xõa xuống bên trên những cái cò súng. Cả về mạn
đầu cùng của ngọn đèovà phía trước mặt, những tia lửa tóe lên
kèm theo những tiếng nổ khô khan. Bị bắn lia lịa ở mặt trước và
ở hai .

bên; bọn kẻ cướp bị rơi vào một ổ phục kích. Tên tù trưởng gục
xuống; hắn lại đứng lên môt cách khó khăn. Một vết máu lấm hoen
bẩn bộ râu dài của hắn. Hắn không .

ngớt khoa chân múa tay và ra thêm nhiều mệnh lệnh. Nhưng những
người của hắn tản mát mọi nơi không tuân lệnh hắn. Có những tên
lại tụt xuống khe sâu để tránh .

khỏi bị làm bia đỡ đạn. Trái lại, những tên khác thì bị đẩy về
phía trước bởi những tên đi sau của đoàn người. Một vài tên tụt
xuống đất và toan leo lên chân núi đá.

gươm tuốt trần để xung phong lên chiếm pháo đài. Nhưng xác chúng
bị trúng đạn chết lăn long lóc từ tảng đá này tới tảng đá nọ cho
tới chân đèo. Sự tác xạ không được chính xác lắm, một tên da đen
đã có thể đứng lên tận trên cao, mà không bị bắn trúng. nhưng
một nhát báng súng đã đánh vỡ đầu hắn. Tên tù trưởng .

đã ngã từ trên tảng đá của hắn xuống và hắn nằm không nhúc nhích
trên mặt đất như một đống giẻ rách màu trắng và nâu hạt dẻ. Khi
một phân nửa bọn A Rập đã bị loại khỏi cuộc chiến, những tên
cuồng tín nhất phải nhìn nhận rằng không không còn giải pháp nào
khác ngoài việc cấp tốc ra khỏi cái khe núi của tử thần này và
quay trở lại sa mạc. Vậy là chúng quay lại và phóng nước đại
chạy đi trên đường đèo. Thật là một sự khủng khiếp khi một con
lạc đà phi nhanh trên một đia hình lởm chởm gồ .

ghề. Sự kinh họàng đã chiếm hữu con vật. Bốn chân của nó cùng
bay lên trên không trong một lúc. Những tiếng kêu rùng rợn của
nó đi kèm theo những tiếng la hét của .

kẻ cưỡi nó đang nảy lên bên lưng nó. Tất cả những cảnh này kết
hợp lại để tạo thành một hình ảnh mà những ai đã nhìn thấy một
lần khó lòng quên được. Khi làn sóng những con lạc đà điên cuồng
tràn qua trước mặt họ, mấy người đàn bà trông rằng gìơ phút cuối
cùng của họ đã tới. nhưng ông đại tá đã đẩy con lạc đà của ông
và những con của các bà vào gĩưa những tảng đá đen; phía bên
ngoài những tên ả Rập đang rút lui. Những viên đạn rít lên trong
không khí, rít lên trên những tảng đá chung quanh họ:

- Hãy bình tĩnh! Chúng nó sẽ bỏ quên chúng ta.

Ông đại tá thì thào nói. Ông đã trở lại là ông trong lúc này,
lúc mà gìơ hành động đã điểm. Tôi rất muốn gặp Tippy Tilly hoặc
một vài người trong đám bạn của y. Họ sẽ có thể giúp đỡ đắc lực
cho chúng ta!

Nhưng trong đám những kẻ chạy trốn đang phi nước đại trước mặt
họ, ông không trông thấy người thủ pháo. May mắn thay, tất cả
mọi người đều thấy rằng trong .

lúc vội vã rời khỏi khe núi, bọn thày tu đã không nghĩ tới những
tù nhân của chúng nữa. Đại bộ phận của đoàn người đã đi xa rồl,
chỉ còn môt vài tên tụt hậu phải chịu .

những loạt đạn bắn từ trên cao xuống. Tên cuối cùng là một tên
baggara trẻ tuổl có ria mép đen và râu cằm để nhọn. Lúc đi qua
hắn ngẩng đầu lên và tay vung gươm trong một điêu bộ bực tức mà
không làm gì được nhắm vào những tên lính Ai Cập. Ngay lúc đó
một viên đạn bắn trúng con lạc đà của hắn và con vật ngã .

quỵ trên mặt đất. Tên Ả Rập nhảy xuống đất, nắm lấy cái rọ mõm
và lấy bản của thanh gươm đập một cách man rợ vào hông con lạc
đà để bắt nó đứng lên. Nhưng .

cặp mắt lờ đờ của nó báo cho hắn biết rằng nó đã bị đánh đến
chết. Mà ở trên sa mạc thì cái chết của một con lạc đà thường
xảy ra ít lâu trước cái chết của người .

cưỡi nó. Tên baggara phóng ra chung quanh hắn những cái nhìn nảy
lửa của con sư tử lúc cùng đường. Hai vết đỏ phơi ra trên nước
da cam nâu của hắn. Nhưng hắn .

chẳng cau mày. Trông thấy các tù nhân hắn thốt lên một tràng kêu
vui thích hung bạo và tung mình lại chỗ họ, tay vung vẩy thanh
gươm trên đầu hắn. Cô Adams đứng ở gần hắn nhất. Khi bà thấy hắn
xông tới, bà nhảy xuống khỏi lưng con lạc đà mà bà dùng làm vật
để che chở cho bà. Tên ả Rập nhảy chồm lên một tảng đá và hắn
muốn phóng một nhát đâm khủng khiếp vào bà Belmont nhưng ông đại
tá đã chĩa súng luc của ông và bắn hắn phọt óc ra ngoài. Trong
cơn tức giận điên dại, còn dữ dội hơn sự hấp hối của cái chết,
tên A Rập tuy đã ngã xuống đất rồi mà vẫn tiếp tục dãy dụa trong
một lúc và chém vung vít những nhát gươm vào không khí :

- Xin các bà đừng sợ nữa! ông đại tá nói lớn - Hắn chết thật
rồi, tôi đoán chắc với các bà thế, tôi rất áy náy là đã tiến
hành sự hành quyết hắn ở trước mặt các bà, nhưng con quỷ này rất
nguy hiểm. Hơn nữa tôi cũng có một món nợ nhỏ phải thanh toán
vớt hắn, vì hôm nọ hắn đã toan đâm thủng mạng sườn của tôi bằng
khẩu rertlington của hắn. Tôi hy vọng rằng bà không tự gây
thương tích cho mình chứ, bà Adams. Đợi một lát, tôi leo xuống.

CÔ gái già Boston không hề hấn gì vì cô phòng bị ngã quá cao.
Sadle, bà Belmont và đại tá Cochrane tự để mình tuột xuống trên
những tảng đá. Bà Adams đứng thẳng người, vung vẩy một cách đắc
thắng những mảnh còn lại của tấm khăn mỏng xanh lục của bà :

- Hoan hô Sadle? Hoan hô cô cháu cưng của ta ! Bà kêu to, chúng
ta đã được giải cứu rồi. con ạ ! Dù sao thì chúng ta cùng đã
được giải cứu rồi! :

- Nhờ ơn trên, đúng, chúng ta đã được giải cứu .

ông đại tá kêu lớn .

Nhưng Sadle đã học được lối nghĩ tới ngườii khác trong những
ngày khủng khiếp này. Nàng ôm lấy bà Belmont và áp má nàng vào
má của bà :

- ôi vi thần yêu quý của sự dịu hiền. nàng kêu lên. Làm sao mà
chúng tôi còn có bụng dạ để vui đùa khi :

- Nhưng tôi không tin một tí gì về chuyện đó ! Người đàn bà dũng
cảm xứ ái Nhĩ Lan trả lời nàng - Không. tôi không tin một chút
nào về chuyện đó khi mà tôi .

chưa nhìn thấy xác của John. Nhưng nếu tôi trông thấy xác anh ấy
thì cuộc đời tôi sẽ không muốn trông thấy một cái xác nào khác
nữa!

Lúc này khe núi đã được quét sạch hết những tên thầy tu cuối
cùng. Phía bên trên đầu họ, trên hai vách cao của đường đèo, họ
trông thấy những người Ai Cập: cao lớn, mảnh khảnh với những cái
vai vuông vắn. Họ hiện rõ nét trên nền trời xanh và họ họàn toàn
giống như các chiến binh được cham trổ trong các bức phù điêu .

cổ xưa. Họ đã buộc những con lạc đà của họ ở đáy khe sâu và họ
vội vã đi gặp chúng. Một vài người lính đã bắt đầu đi vào đường
đèo. Mắt họ sáng rực lên với sự .

khích động của chiến thắng và của sự truy kích. Một người Anh
nhỏ thó với một bô ria mép hoe vàng và một vẻ lì lợm cưỡi lạc đà
đi dẫn đầu ông dừng con lạc đà lại .

vào ngang tầm với các cựu tù nhân và chào các bà. Ông mang giày
ống nâu và một dải đeo kiếm màu hung hung với những cái móc bằng
thép trên bộ quân phục kaki :

- Lần này người ta đã tóm được chúng, và đã tóm khá tốt! - ông
nói - Dĩ nhiên là rất vui thích đã có thể gíup đỡ được quý vị.
Tôi hy vọng rằng các bà không đến nỗii vất vả lắm để thoát nạn.
Đây không phải là môn thể thao rất dễ chịu đối với các bà:

- Tôi đoán rằng ông ở Ouadl - Haifa phải không ?

ông đại tá hỏi :

- Không. Chúng tôi thuộc về một toán khác. Chúng tôi là đội trú
phòng ở Sarras. Chúng tôi đã gặp chúng trong ở mạc, chúng tôi đã
đi vòng về phía trước chúng .

và toán ở Ouadl - Haifa thì chờ chúng ở phía sau. Tôi xin nói
với ông. Hãy leo lên các tảng đá và ông sẽ nhìn thấy sự tiếp
diễn của các trận đánh. Lần này sẽ là một trận hạ đo ván trong
một hiệp duy nhất:

- Chúng tôi còn bỏ lại ở chỗ những giếng nước một bộ phận của
nhóm chúng tôi. Chúng tôi rất lo lắng cho số phận của họ ông
không có tin tức nào về mạn áy à?

Cochrane hỏi .

Viên sĩ quan trẻ trở nên nghiêm trọng và lắc đầu :

- Một chuyện bẩn thỉu - ông ấy nói - Khi ông đẩy những ngườl đó
tới chỗ đường cùng, họ trở nên độc ác. Hãy để cho tôi nói với
ông rằng chúng tôi tuyệt nhiên .

không nghĩ là sẽ tìm thấy các ông còn sống. Tất cả những gì
chúng tôi hy vọng chỉ là trả thù cho các ông :

- Không có người Anh nào khác đi với ông à ?

- Archer chỉ huy chi đội đang ở trên kia kìa. Ông ấyy sẽ phải đi
qua đây, vì tôi không tin rằng còn có con đường nào khác để đi
xuống. Chúng tôi đã lượm được .

một người đồng bọn các bạn ông: một con chim ngộ nghĩnh với một
cái mũi đỏ. Tôi hy vọng sẽ gặp lại ông sau này! Hẹn tái ngộ,
thưa quý Bà!

Ông cầm lấy cái mũ cứng của ông, dắt con lạc đà và phi nước kiệu
để bắt kịp những binh lính của ông :

- Chúng ta không còn gì để làm tốt hơn là chờ cho mọi việc qua
đi - ông đại tá nói .

Quả thực những quân lính phục kích trên các đỉnh vách đèo đều
phải mượn đường đèo để đi ra. Đi theo hàng một, họ tiến bước, da
đen hay da nâu, người Soudan .

và người Ai Cập, nhưng tất cả bọn họ đều có phong thái đẹp vì
đạo quân lạc đà là đạo quân ưu tú của quân đội Ai Cập. Họ đeo
một bao đạn lên trên ngực và khẩu súng ngang đùi. Một người đàn
ông thân mình to lớn với bộ ria mép đen rậm nhìn xuống, ống nhòm
cầm trong tay và cưỡi lạc đà đã đoạn hậu:

- Hê-lô, Archer! ông đại tá gọi .

Viên sĩ quan nhìn vào mắt ông với một cái nhìn lạnh lùng trống
rỗng như thể ông đại tá là người hoàn toàn xa lạ với ông ta :

- Tôi là Cochrane đây này! Chúng ta đã cùng đi du ngoạn với nhau
:

- Thưa ông, xin thứ lỗi - viên sĩ quan trả lời - Tôi có biết một
đại tá Cochrane, nhưng không phải là ông, ông ấy cao hơn ông
mười phân, tóc đen, và :

- Rất đúng - ông đại tá nói lớn, trong lòng không khỏi bực bội -
Hãy sống vài ngày với bọn thày tu Hồi giáo, rồi ông sẽ thấy sau
đó các bạn bè của ông có nhận .

ra ông không ?

- Trời ơi. Cochrane. Đúng là ông thật à ? Chả bao giờ tôi lại
tin là có chuyện này! Lạy Chúa, nỗi thống khổ của ông mới tệ hại
làm sao! Tôi đã từng nghe nói nhiều người có thể bạc đầu trong
một đêm. Nhưng … :

- Được rồi - ông đại tá cắt ngang câu nói, mặt dỏ bừng - Cho
phép tôi được đề nghị điều này, ông Archer ạ. Nếu ông có thể
kiếm cho các bà này thứ gì để ăn và .

thứ gì để uống, thay vì bàn cãi về thể chất của cá nhân tôi thì
ông sẽ chứng tỏ là ông không thiếu tinh thần thực tế:

- Được lắm - đại úy Archer ưng thuận - ông ban Stuart của ông
biết là ông ở đây và ông ấy sẽ mang một ít lương thực tới cho
ông và các bà. Thức ăn sẽ ít thôi, thưa các bà. Nhưng chúng tôi
không thể cống hiến thứ gì tốt hơn cho các bà. Ông Cochrane, ông
là một quân nhân già. Xin ông hãy leo lên các tảng đá. vì ông sẽ
.

nhìn thấy một cảnh đẹp. Tôi không có thì gìơ dừng lại, vì trong
năm phút nữa chúng tôi sẽ tham chiến toàn bộ. Tôi có thể làm
việc gì khác nữa cho ông trước khi lên đường không ?

- Ông không có cái gì giống như một điếu xì gà à? ông đại tá hỏi
.

Archer lấy từ trong cái túi da của ông ra một gói thuốc Paraga
dày cộm và đưa cho ông cùng với mấy que diêm; rồi ông đi khỏi để
nhập bọn với những người của ông. Cochrane ngồi dựa lưng vào một
tảng đá, rít điếu xì gà một cách say sưa. Chính trong những lúc
như thế này những dây thần kinh bị quá căng thẳng mới thấy .

biết ơn tất cả những đức tính của thuốc lá, thứ thuốc an thần
đáng yêu này là thứ đã vừa tăng cường, vừa trấn an. Trong một
lúc ông nhìn những vòng khói lãng đang .

xoay lòng vòng chung quanh ông, một sự uể oải dễ chịu chiếm ngự
cái thân thể mệt mỏi của ông. Ba người dàn bà thì ngồi trên một
tảng đá phẳng :

- Lạy Chúa, Sadie này. Cháu có vẻ thế nào nhỉ?

CÔ Adams nói. cô đã hoàn toàn trở lại chính là cô. Mẹ cháu sẽ
nói gì nếu bà ấy trông thấy cháu? Cháu có mái tóc đầy rơm rác và
áo dài của cháu thật là quá bẩn thỉu .

đến phát sợ lên:

- Cháu nghĩ là tất cả bọn chúng ta đều cần tắm rửa một chút.
Sadle nói với một giọng mà sự êm dịu làm cho không ai nhận ra
tiếng của nàng. Bà Belmont, lúc nào bà cũng xinh đẹp, nhưng xin
bà cho phép tôi sắp lại cái áo dài cho bà .

Cái nhìn của bà Belmonl đã bị chìm đi trong khoảng xa xăm. Bà
lắc đầu một cách buồn bã và đẩy bàn tay của Sadle ra:

- Tôi có vẻ ra sao cũng không có gì quan trọng tôi không nghĩ
tới điều đó. - bà nói - Liệu cô có thể bận tâm về cái áo dài của
cô, nếu cô đã bỏ lại sau lưng cô .

người đàn ông mà cô yêu quý. Như tôi đã bỏ lại người yêu quý của
tôi không?

- Tôi đã bắt đầu, Tôi đã bắt đầu nghĩ rằng tôi đã bỏ lại người
đàn ông yêu quý của tôi - Cô Sadle khốn khổ nức nở khóc .

Và nàng giấu khuôn mặt nóng bỏng của nàng vào lòng lẻn mẫu của
bà Belmont.

Chương kết:

Tất cả đạo quân lạc đà đã diễn hành trong khe núi mở cuộc truy
kích bọn thầy tu Hồi giáo đang tháo lui . Trong một vài phút,
những người được giải cứu đứng lại một mình. Nhưng chẳng mấy
chốc một tiếng nói vui vẻ gọi họ. Một cái khăn quàng đầu màu đỏ
đang nhảy nhót giữa những tảng đá, và cái đầu lạc đà to phè của
vị mục sư bất phục quy tắc hiện ra. Ông tựa mình trên một ngọn
glâo vì cái chân bị thương của ông, và cái nạng kiểu nhà binh
này kết hợp với bộ y phục hòa bình của ông đã cho ông một hình
thù bất tương hợp: người ta tưởng tượng đến một con cừu bỗng
nhiên mọc ra những móng vuốt khủng khiếp. Hai tên da đen đi theo
ông vác một cái lồ và một túi da đựng nước.

- Ðừng nói gì cả! Ông nói lớn với họ, trong khi cập cẫng đi tới
chỗ họ. Tôi biết một cách chính xác những gì các vị đang nghĩ
ngợi. Chính tôi cũng đã ở trong trường hợp các vị. Ðem nước lại
đây, Ali! Chỉ có nửa chén thôi, bà Adams ạ; các vị sẽ có thể
uống thêm, một lát nữa đây. Ðến lượt bà, bà Belmont! Lạy Chúa,
lạy Chúa, những linh hồn khốn khổ, tôi đau lòng biết bao vì các
vị! Trong cái lồ có bánh và thịt, nhưng các vị nên ăn vừa phải
khi mới bắt đầu...

Ông khúc khích cười vui thích, ông vỗ tay trong khi nhìn họ ăn
và uống.

- ...Còn những người khác? Ông hỏi với tất cả vẻ nghiêm trọng
vừa lấy lại của ông.

Ông đại tá lắc đầu:

- Chúng tôi đã bỏ họ ở lại chỗ những cái giếng. Tôi sợ rằng tất
cả đều đã kết liễu với họ.

- Suỵt, suỵt! Vị mục sư kêu lên với một giọng vang tai như muốn
làm cho mọi người quên đi sự bối rối hiện ra trên nét mặt ông.
Tất nhiên các vị cũng đã nghĩ là tất cả đều đã kết thúc với tôi
rồi; thế mà tôi vẫn còn đây. Bà Belmont, chớ mất can đảm! Chắc
chắn là số phận của ông chồng bà không tuyệt vọng hơn số phận
của tôi đâu.

- Khi tôi trông thấy ông đứng trên mỏm núi kia, tôi cứ tưởng
rằng tôi bị mê sảng, ông đại tá nói. Nếu các bà đây đã không
nhận ra ông như tôi thấy, thì không bao giờ tôi dám tin vào cặp
mắt của tôi.

- Tôi nghĩ rằng tôi đã xử sự rất tệ. Ðại úy Archer nói rằng suýt
nữa tôi đã làm hỏng tất cả các kế hoạch của họ, rằng tôi đáng bị
đưa ra hội đồng chiến tranh và bị xử bắn. Sự việc là khi tôi
nghe thấy bọn Ả Rập đi qua ở phía dưới, tôi đã không thể kháng
cự lại ý muốn biết xem các bạn cũ của tôi có cùng đi với chúng
không?

- Tôi hết sức kinh ngạc thấy rằng ông đã không bị xử bắn bên
ngoài mọi hội đồng chiến tranh, ông đại tá nói. Ma quỷ đưa đường
thế nào mà ông đến được đây?

- Ðội quân lạc đà ở Quadi - Halfa đã tung ra đi theo con đường
mòn của chúng ta lúc tôi bị bỏ lại, và họ đã nhặt được tôi trong
sa mạc. Tôi đoán rằng tôi đã bị mê sảng, vì họ nói rằng họ đã
nghe thấy tiếng tôi từ rất xa: hình như tôi đã gân cổ lên mà hát
những bài thánh ca và thánh thi; chính là tiếng của tôi, với sự
phù trợ của thượng đế, đã hướng dẫn họ tới chỗ tôi. Họ có một
trạm cứu thương trên một con lạc đà; sáng hôm sau thì tôi bình
phục. Chúng tôi bắt liên lạc với quân trú phòng ở Sarras, và tôi
lại đi cùng với họ, vì có một y sĩ đi theo họ. Vết thương của
tôi không hề hấn gì cả. Viên y sĩ khẳng định với tôi rằng tôi sẽ
khỏe mạnh rất nhiều hơn sau vụ mất máu này. Và bây giờ các bạn
...

Cặp mắt nâu, lớn của ông đã mất đi sự ranh mãnh và làm ra vẻ
nghiêm trang, kính cẩn.

- ...Tất cả bọn chúng ta đều ở trên ngưỡng cửa của tử thần, và
những người bạn đồng hành thân mến của chúng ta có lẽ ngay cùng
lúc đó cũng giống như chúng ta. Cái quyền lực đã cứu vớt chúng
ta có thể cũng đã cứu vớt họ. Chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện
cho sự việc được như vậy. Nhưng chúng ta phải luôn luôn nhớ
rằng, nếu bất kể những lời cầu nguyện của chúng ta, sự việc
không được như vậy, thì chúng ta sẽ phải chấp nhận sự thật như
là quyết định hoàn hảo nhất và khôn ngoan nhất của đấng bề trên.


Ở giữa những tảng đá đen ngòm, tất cả năm người bọn họ đều quỳ
xuống, và họ cầu nguyện như thể vài người trong bọn họ chưa từng
bao giờ cầu nguyện trước đây. Thật thế, bàn luận về việc cầu
nguyện với sự hời hợt và hoàn toàn có tính cách triết lý trên
boong tàu Korosko là điều rất lý thú. Và thật không khó khăn gì
để cảm thấy mình dũng mãnh và đầy lòng tự tin trong một cái ghế
bành êm ái, trong lúc một tên Ả Rập đi quanh bàn dâng cà phê và
rượu ngọt. Nhưng khi bất thần bị ném ra ngoài dòng đời bình
lặng, họ bị tổn thương trước những sự thật khủng khiếp, rùng rợn
của cuộc đời. Bị suy sụp vì nhọc mệt và sợ hãi, họ thấy cần phải
bám víu vào một cái gì đó. Tin tưởng vào một định mệnh mù quáng
và khắc nghiệt thật là khủng khiếp. Một quyền lực của sự nhu
hòa, thao tác với trí thông minh nhằm vào một mục đích, một
quyền lực sinh động, hữu hiệu, tách họ ra khỏi những lề lối tư
tưởng thường nhật, trừ bỏ những thói quen bè phái nhỏ nhặt của
họ, dẫn dắt họ vào một con đường tốt đẹp hơn, đó là những gì họ
đã học và biết được trong những ngày kinh hoàng này. Những bàn
tay vĩ đại đã khép lại trên con người họ, đã tạo cho họ những
hình dạng mới, đã chuẩn bị cho họ đi vào một cuộc sống khác.
Liệu cái quyền lực đó sẽ có thể không để tự mình mềm lòng bởi
những sự van nài của con người không? Nó là tòa phúc thẩm tối
cao mà loài người đau khổ có thể kêu cầu. Ðó là lý do tại sao
tất cả bọn họ đều cùng nhau cầu nguyện, cũng như một gã si tình
yêu đương hay một thi sĩ viết thơ với niềm sâu thẳm nhất của tâm
hồn họ. Khi họ đứng dậy, họ nghiệm thấy cái cảm giác đặc biệt,
phi lý của sự yên bình nội tâm và sự mãn nguyện mà chỉ có sự cầu
nguyện mới có thể ban cho họ.

- Im lặng! Cochrane nói. Hãy lắng nghe!

Tiếng vang của một loạt súng lan ra trong khe núi hẹp. Nó được
tiếp theo bởi một loạt khác, và nhiều loạt nữa. Ông đại tá dậm
chân tức tối như một con ngựa già khi nghe thấy tiếng kèn săn và
những tiếng sủa của đàn chó săn.

- Chúng ta có thể trông thấy những gì đang diễn ra ở nơi nào?


- Hãy tới đây! Tới đây, nếu ông vui lòng! Một con đường nhỏ leo
lên tới đỉnh núi. Nếu các bà muốn theo tôi, tôi sẽ tránh cho các
bà khỏi phải nhìn một cảnh tượng đau lòng.

Ông mục sư dẫn các bà theo một cách để các bà không nhìn thấy
những xác chết nằm ngổn ngang dưới đáy khe sâu. Từ bên trên các
mỏm núi, toàn cảnh thật khác thường. Ở dưới chân họ là bãi sa
mạc trải dài ra với những đợt lượn sóng; nhưng ở lớp thứ nhất
đang diễn ra một cảnh mà chắc chắn là không bao giờ người ta
quên được. Trong cái ánh sáng trong trẻo và khô khan này, trên
một cái nền màu hung hung, những cái bóng người hiện ra cũng rõ
ràng như những anh lính bằng chì trên một cái bàn vậy.

Những tên thầy tu, hoặc đúng hơn là những kẻ còn lại, rút lui
một cách chậm chạp thành một đám đông hỗn độn. Chúng không có vẻ
gì là những kẻ bại trận. Những sự di chuyển của chúng được tính
toán; nhưng chúng đã không ngừng thay đổi đội hình có vẻ như
chúng đang ngập ngừng về chiến thuật phải theo. Sự rối rắm của
chúng là chuyện bình thường thôi, vì những con lạc đà của chúng
đều mệt lử, và chúng đang ở trong một tình thế gần như tuyệt
vọng. Còn về phần những người ở Sarras, thì họ đã từ trong khe
núi ùa ra, nhảy xuống đất và buộc những con lạc đà của họ từng
nhóm bốn con một; các xạ thủ dàn ra thành một hàng dài, bao
quanh là một làn khói; họ bắn hết loạt này tới loạt khác. Bọn Ả
Rập chống trả một cách rời rạc. Nhưng những người đứng xem không
còn quan tâm nhiều tới bọn thầy tu hay tới các xạ thủ ở Sarras
nữa. Ở đằng xa trên bãi sa mạc, ba chi đoàn thuộc đạo quân lạc
đà ở Quadi - Halfa đang tiến lên trong một đoàn dày đặc để rồi
trong chốc lát mở rộng ra để làm thành một vành bán nguyệt lớn.
Bọn Ả Rập bị kẹp vào giữa hai hỏa lực.

- Lạy Chúa! Ông đại tá kêu lên. Hãy nhìn xem kìa.

Trong cùng một lúc, những con lạc đà của bọn thầy tu đều quỳ
xuống, và những người cưỡi trên lưng chúng nhảy xuống đất. Ở
hàng đầu, đứng sừng sững cái bóng uy nghi của tù trưởng Wad
Ibrahim. Y quỳ xuống một lát để cầu nguyện. Rồi y đứng lên, lấy
một vật gì từ cái yên ra, đặt vật đó một cách thận trọng trên
bãi cát và đứng lên trên, đứng rất ngay ngắn.

- Một người dũng cảm! Ông đại tá kêu lên - Y đứng lên trên tấm
da cừu của y.

- Ông hiểu ra sao về việc này? Stuart hỏi.

- Tất cả những người Ả Rập đều có một miếng da cừu để trên yên
của họ. Khi một người Ả Rập thấy rằng tình thế của y đã hoàn
toàn tuyệt vọng, và khi bất chấp mọi điều y cương quyết chiến
đấu cho tới hơi thở cuối cùng, y lấy miếng da cừu ra và đứng lên
nó cho tới khi chết. Nhìn kìa, tất cả bọn chúng đều đứng trên
những miếng da cừu của chúng. Lúc này không có sự khoan dung của
bên này hay bên kia!

Màn kịch đến gần đoạn kết một cách nhanh chóng. Một vòng khói và
lửa bao quanh những tên thầy tu Hồi giáo đang quỳ gối, chúng
chống trả tận lực. Gọng kìm xiết lại. Bọn Ả Rập đã bị mất nhiều
người, bọn còn lại tiếp tục bắn với một sự anh dũng bất khuất.
Hơn mười cái xác bận đồ kaki đã chứng thực rằng những người Ai
Cập cũng phải trả giá cho chiến thắng của họ. Một hồi kèn nổi
lên trong đám quân lính ở Sarras; một hồi khác đáp lại trong đám
quân lạc đà ở Quadi - Halfa. Những người này đã nhảy xuống đất
và xếp thành hàng ngũ. Sau loạt súng cuối cùng, họ đi theo nhịp
bước xung kích, trong khi thốt lên những tiếng la man rợ mà
những dân da đen đã du nhập từ những miền bao la hoang dã của
Phi Châu. Trong một phút, một cơn cuồng phong thật sự đã trộn
lộn những ngọn giáo và những báng súng ở giữa một đám mây bụi mờ
mịt. Rồi những tiếng kèn lại nổi lên. Nhưng binh lính Ai Cập lùi
lại ngay tức thì để bố trí lại đội hình với sự quyết định nhanh
chóng của một đạo quân có kỷ luật. Ở giữa bãi chiến trường,
những tên cướp và tên chỉ huy của chúng nằm bất động, mỗi tên
trên mảnh da cừu của hắn. Thế kỷ thứ mười chín đã trả thù cho
thế kỷ thứ bảy.

Ba người đàn bà đã nhìn quang cảnh với những con mắt đờ đẫn,
kinh hoàng. Sadie và cô nàng khóc sướt mướt. Ông đại tá quay lại
phía họ để nói một vài lời khích lệ, nhưng ông im tiếng trước vẻ
mặt của bà Belmont, mặt bà cũng trắng bệch, cũng căng thẳng như
thể được khắc trong một miếng ngà; bà có một cái nhìn không chớp
mắt như thể là bà đang ở trong tình trạng xuất thần.

- Trời ơi, bà Belmont, bà làm sao vậy? ông đại tá kêu lên.

Thay cho câu trả lời, bà chỉ một chấm nhỏ trên sa mạc, ở đằng
xa, ở nhiều cây số cách nơi giao tranh, một toán nhỏ những kỵ
binh đang tiến tới.

- Ðồ mắc dịch, đúng rồi! Kia có người đi tới. Họ là ai vậy?...


Họ cố căng mắt lên mà nhìn, nhưng khoảng cách quá xa. Họ chỉ
biết được một điều: đó là chừng hơn một chục người cưỡi lạc đà.


- Ðó là những con quỷ dữ ở lại trong ốc đảo, Cochrane nói. Không
thể là người nào khác. Niềm an ủi duy nhất của chúng ta là chúng
sẽ không thể tránh khỏi số phận đang chờ đợi chúng. Chúng đang
lao đầu vào tử địa.

Nhưng bà Belmont vẫn tiếp tục nhìn với cùng một sự khẩn trương
và cùng một nét mặt bằng ngà. Thình lình bà thốt lên một tiếng
kêu vui thích và vung vẩy hai bàn tay.

- Ðúng là họ rồi! Họ được giải cứu rồi! Ðúng là họ, ông đại tá,
đúng là họ! Ôi, bà Adams, đúng là họ!

Bà chạy nhảy lăng quăng trên đỉnh đồi. Mắt bà sáng rực lên như
mắt một đứa trẻ đang bị khích động.

Các bạn đồng hành của bà không muốn tin lời bà, vì họ không nhìn
ra một vật nào chính xác cả; nhưng trong một vài trường hợp các
giác quan của chúng ta trở nên sắc bén lạ thường. Người ta bảo
rằng linh hồn và tâm trí đã ban cho chúng tất cả nguyên khí. Bà
Belmont đã đi xuống con đường nhỏ gồ ghề đá sỏi để leo lên con
lạc đà của bà, nhưng các bạn của bà vẫn chưa thấy điều gì đã
mang lại cho bà tín điệp vui mừng này. Tuy nhiên, cuối cùng thì
họ cũng phân biệt được trong nhóm người đang tiến tới ba cái
chấm trắng long lanh dưới ánh mặt trời: ba chấm trắng đó chỉ có
thể là ba cái mũ của những người âu. Ðến lượt họ, ông đại tá, bà
Adams và Sadie đều đổ xô tới: họ nhận ra Belmont, Fardet,
Stephens, anh thông ngôn Mansoor và người lính Soudan bị thương.
Ðoàn hộ tống cùng đi với họ gồm có Tippy Tilly và những cựu quân
nhân Ai Cập khác. Belmont ngả vào hai tay bà vợ ông; Fardet nắm
lấy tay ông đại tá.

- Nước Pháp muôn năm! Những người Anh muôn năm! Ông la lớn. Mọi
sự đều tốt đẹp, có phải không, đại tá? A, lũ chó má! Cây thánh
giá và những người cơ đốc giáo muôn năm!

Sự vui mừng làm cho ông hoàn toàn mất hết mạch lạc trong những
lời nói.

Ông đại tá cũng tràn trề hồ hởi trong phạm vi mà bản chất của
dân Anh Cát Lợi đã cho phép ông. Ông không thể khoa chân múa
tay; nhưng ông bắt đầu cười khành khạch, đó là một chỉ dẫn của
sự xúc cảm tột độ của ông.

- Ông bạn thân, tôi rất hài lòng được gặp lại tất cả các ông.
Tôi đã coi như các ông bị chết cả rồi. Chưa bao giờ tói được
sung sướng thế này! Làm cách nào mà các ông đã có thể thoát nạn?


- Chính ông đã làm tất cả mọi việc!

- Tôi à?

- Phải, ông bạn ơi, và khi tôi nghĩ tới việc tôi đã cãi vã với
ông! Tôi thật là một kẻ vô ơn khốn nạn!

- Nhưng tôi đã cứu ông bằng cách nào?

- Ông đã bày mưu tất cả với anh chàng Tippy Tilly dũng cảm này,
bằng cách hứa cho y tiền nếu y đưa chúng ta còn sống trở lại Ai
Cập! Nhờ có bóng đêm, các bạn của y và y đã lẻn vào khu rừng cây
cọ và họ ẩn núp ở đó. Khi ông đi rồi, họ đã bò tới với những
khẩu súng và họ đã hạ sát những kẻ sắp hành quyết chúng tôi. Cái
tên thầy giảng chết tiệt đó, tôi tiếc rằng họ đã giết hắn! Tôi
tin rằng tôi sẽ có thể cải đạo cho hắn sang cơ đốc giáo. Và bây
giờ, xin óng cho phép tôi được chạy tới ôm lấy cô Adams, vì
Belmont đã có vợ của ông ấy, Stephens có Sadie; vì thế tôi thấy
rõ ràng là cảm tình của cô Adams sẽ dành cho tôi

Mười lăm ngày sau, chiếc tàu thủy được thuê riêng cho những
người được cứu thoát đang vượt sóng ở phía Bắc Assiout. Sáng hôm
sau họ phải tới Beliani, rồi từ đó đi tàu tốc hành tới Le Caire.
Do đó đây là buổi tối cuối cùng mà họ chung sống với nhau. Bà
Shlesinger và đứa con của bà, những người mới tránh khỏi những
viên đạn c

Hãy cảm ơn bài viết của donka bằng cách bấm vào "" ở bên dưới nhé!!!

Về Đầu Trang Go down

https://dlthanh.forumvi.com

Sponsored content


//dondonitt

Bài gửiTiêu đề: Re: Tấn Thảm Kịch Của Tàu korosko Tấn Thảm Kịch Của Tàu korosko Icon_minitime

Hãy cảm ơn bài viết của Sponsored content bằng cách bấm vào "" ở bên dưới nhé!!!

Về Đầu Trang Go down

[Tiêu đề]

Tấn Thảm Kịch Của Tàu korosko

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
 :: GIẢI TRÍ :: Đọc Truyện :: Trinh Thám - Gián Điệp-

Diễn Đàn Group Share Công Nghệ Thông Tin - dlthanh.forumvi.com
Copyright © 2011 DLTHANH, Inc. All rights reserved

Free forum | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Thảo luận mới nhất